Tài liệu ôn tập kiểm tra lại Môn Ngữ văn 11 - Năm học 2023-2024 - Trường THPT Trần Đại Nghĩa
Bạn đang xem tài liệu "Tài liệu ôn tập kiểm tra lại Môn Ngữ văn 11 - Năm học 2023-2024 - Trường THPT Trần Đại Nghĩa", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
tai_lieu_on_tap_kiem_tra_lai_mon_ngu_van_11_nam_hoc_2022_202.pdf
Nội dung text: Tài liệu ôn tập kiểm tra lại Môn Ngữ văn 11 - Năm học 2023-2024 - Trường THPT Trần Đại Nghĩa
- TRƯỜNG THPT TRẦN ĐẠI NGHĨA CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM TỔ VĂN Độc lập – Tự do – Hạnh phúc Cái Răng, ngày 23 tháng 5 năm 2024 NỘI DUNG ÔN TẬP Kiểm tra lại năm học 2023-2024 Môn Ngữ văn 11 I. NỘI DUNG ÔN TẬP 1. ĐỌC a) Bài 8: Thơ Nhận biết: - Nhận biết được chi tiết tiêu biểu, đề tài, nhân vật trữ tình trong bài thơ. - Nhận biết được cấu tứ, vần, nhịp, những dấu hiệu thể loại của bài thơ. - Nhận biết được yếu tố tượng trưng (nếu có) trong bài thơ. - Nhận biết được những biểu hiện của tình cảm, cảm xúc trong bài thơ. - Nhận biết đặc điểm của ngôn từ nghệ thuật trong thơ. Thông hiểu: - Hiểu và lí giải được ý nghĩa giá trị thẩm mĩ của ngôn từ, cấu tứ, hình thức bài thơ. - Phân tích, lí giải được vai trò của yếu tố tượng trưng trong bài thơ (nếu có). - Xác định được chủ đề, tư tưởng, thông điệp của bài thơ. - Lí giải được tình cảm, cảm xúc, cảm hứng chủ đạo của người viết thể hiện qua bài thơ. - Phát hiện và lí giải được các giá trị văn hóa, triết lí nhân sinh của bài thơ. - Phân tích được tính đa nghĩa của ngôn từ trong bài thơ. Vận dụng: - Nêu được ý nghĩa hay tác động của bài thơ đối với quan niệm, cách nhìn của cá nhân về những vấn đề văn học hoặc cuộc sống. - Thể hiện thái độ đồng tình hoặc không đồng tình với các vấn đề đặt ra từ bài thơ. b) Bài 9: Truyện, Truyện kí b1) Truyện Nhận biết: - Nhận biết được đề tài, câu chuyện, sự kiện, chi tiết tiêu biểu, không gian, thời gian, nhân vật trong truyện ngắn hiện đại. - Nhận biết được người kể chuyện (ngôi thứ ba hoặc ngôi thứ nhất), lời người kể chuyện, lời nhân vật trong truyện ngắn hiện đại. - Nhận biết được điểm nhìn, sự thay đổi điểm nhìn; sự nối kết giữa lời người kể chuyện và lời của nhân vật. - Nhận biết một số đặc điểm của ngôn ngữ văn học trong truyện ngắn hiện đại. Thông hiểu: - Tóm tắt được cốt truyện của truyện ngắn hiện đại. - Phân tích, lí giải được mối quan hệ của các sự việc, chi tiết trong tính chỉnh thể của tác phẩm. - Phân tích được đặc điểm, vị trí, vai trò của của nhân vật trong truyện ngắn hiện đại; lí giải được ý nghĩa của nhân vật.
- 2 - Nêu được chủ đề (chủ đề chính và chủ đề phụ trong văn bản nhiều chủ đề) của tác phẩm. - Phân tích và lí giải được thái độ và tư tưởng của tác giả thể hiện trong văn bản. - Phát hiện và lí giải được các giá trị văn hóa, triết lí nhân sinh của tác phẩm. Vận dụng: - Nêu được ý nghĩa hay tác động của văn bản tới quan niệm, cách nhìn của cá nhân với văn học và cuộc sống. - Thể hiện thái độ đồng tình hoặc không đồng tình với các vấn đề đặt ra từ văn bản. b2) Truyện kí Nhận biết: - Nhận biết được đề tài của văn bản. - Nhận biết được các chi tiết tiêu biểu. - Nhận biết được các yếu tố hư cấu và phi hư cấu trong văn bản. - Nhận biết một số đặc điểm của ngôn ngữ văn học trong văn bản. Thông hiểu: - Phân tích, lí giải được ý nghĩa, tác dụng của các chi tiết tiêu biểu, đề tài trong văn bản. - Phân tích được sự kết hợp giữa hư cấu và phi hư cấu trong văn bản. - Phân tích được chủ đề, tư tưởng, thông điệp của văn bản. - Phân tích, lí giải được tình cảm, cảm xúc, cảm hứng chủ đạo của người viết thể hiện qua văn bản; phát hiện và lí giải được các giá trị văn hóa, triết lí nhân sinh của văn bản. - Lí giải được tính đa nghĩa của ngôn ngữ nghệ thuật trong văn bản. Vận dụng: - Nêu được ý nghĩa hay tác động của văn bản tới quan niệm của bản thân về cuộc sống hoặc văn học. - Thể hiện thái độ đồng tình hoặc không đồng tình với các vấn đề đặt ra trong văn bản. c) Thực hành tiếng Việt - Biện pháp tu từ lặp cấu trúc (bài 8); - Lỗi về thành phần câu và cách sửa (bài 9). 2. VIẾT 2.1. Viết bài văn nghị luận về một tác phẩm văn học (bài thơ/ đoạn thơ) Mở bài Giới thiệu tác phẩm văn học (tên tác phẩm, tác giả, thể loại,...) Thân bài Nêu khái quát giá trị đặc sắc của tác phẩm. Trình bày tóm tắt nội dung của tác phẩm. Phân tích, đánh giá giá trị đặc sắc về nội dung của tác phẩm. Phân tích, đánh giá giá trị đặc sắc về hình thức nghệ thuật của tác phẩm. Trình bày những suy nghĩ, cảm nhận của bản thân về tác phẩm. Khẳng định lại một cách khái quát giá trị đặc sắc về nội dung và nghệ thuật của tác phẩm. Kết bài Nêu ý nghĩa của tác phẩm đối với bản thân và người đọc. Kết hợp các thao tác lập luận, lập luận chặt chẽ, hệ thống luận điểm mạch lạc. Kĩ năng Có lí lẽ xác đáng, bằng chứng tin cậy lấy từ tác phẩm. trình bày, Diễn đạt rõ ràng, gây gọn, đáp ứng yêu cầu của kiểu bài. diễn đạt Sử dụng các từ ngữ, câu văn tạo sự gắn kết giữa các luận điểm, giữa bằng chứng với lí lẽ và bảo đảm mạch lạc cho bài viết. 2.2. Viết văn bản thuyết minh (về một đối tượng) có lồng ghép một hay nhiều yếu tố như miêu tả, tự sự, biểu cảm, nghị luận
- 3 a) Cách viết Mở đầu Giới thiệu đối tượng/ quy trình thuyết minh. Nội dung Miêu tả bao quát đối tượng/ quy trình. chính Trình bày từng phương diện của đối tượng/ quy trình thuyết minh theo một trình tự hợp lí (trước – sau; Nội dung trên – dưới; trong – ngoài; khái quát – cụ thể,...). Tập trung giới thiệu một vài điểm đặc sắc nhất của đối tượng/ quy trình. Làm rõ vai trò, giá trị, ý nghĩa của đối tượng/ quy trình. Kết thúc Đánh giá chung và nêu cảm nhận về đối tượng/ quy trình thuyết minh. Kĩ năng Trình bày các ý mạch lạc, hệ thống. trình bày, Sử dụng lồng ghép các yếu tố miêu tả, tự sự, biểu cảm, nghị luận đề làm tăng diễn đạt hiệu quả thuyết minh. Sử dụng phương tiện phi ngôn ngữ để hỗ trợ nội dung thuyết minh. Không mắc lỗi chính tả, dùng từ, viết câu, liên kết câu/ đoạn. b) Một số gợi ý về đối tượng thuyết minh - Bến Ninh Kiều. - Mũi Cà Mau. - Bến Nhà Rồng. II. MỘT SỐ LƯU Ý ĐỐI VỚI HỌC SINH KHI LÀM BÀI KIỂM TRA 1. Trình bày văn bản - Lề trái phải thẳng. - Tất cả các trường hợp xuống dòng đều phải thụt đầu dòng. - Phải viết hoa chữ cái đầu câu. - Dẫn chứng trực tiếp, tên tác phẩm, đoạn trích phải để trong ngoặc kép. - Viết tắt, viết số, viết hoa phải theo đúng quy tắc và chuẩn mực của tiếng Việt. - Viết chữ và trình bày văn bản phải cẩn thận, khoa học. - Không dùng hai màu mực trong một bài kiểm tra, không dùng bút xoá. 2. Thực hiện phần Đọc - Trả lời mỗi câu phải có lời dẫn (không lặp lại từ lệnh, từ hỏi) - Nếu phần trả lời chỉ có 01 ý thì không gạch đầu hàng. - Nêu dấu hiệu nhận biết hoặc chỉ ra chi tiết tiêu biểu: ghi lại ngắn gọn câu văn nào tiêu biểu cho nội dung chính vừa tìm được, không ghi nguyên một đoạn văn; không ghi tắt rồi chấm chấm. - Trả lời câu hỏi: Anh/ chị có đồng tình với ý kiến sau của tác giả “ ”: Ghi đồng tình hoặc không đồng tình với ý kiến “ .”. - Nhận xét thái độ, tình cảm của tác giả: tác giả thể hiện tình cảm gì: yêu, nhớ, thương, trân trọng, ca ngợi đối với điều gì. - Tóm tắt văn bản: tóm tắt ngắn gọn nội dung chính của văn bản; không kể dài dòng. - Ngôi kể: phải xác định ngôi thứ mấy, qua từ ngữ nào; nếu là ngôi thứ ba thì ngôi thứ ba hạn tri hay toàn tri. - Điểm nhìn: chỉ ra điểm nhìn của ai. 3. Thực hiện phần Viết - Cần xác định đúng luận đề. - Bố cục bài văn phải hoàn chỉnh, rõ ràng. - Phần thân bài cần triển khai luận đề thành các luận điểm cụ thể.
- 4 - Mỗi luận điểm cần được làm rõ bằng cách kết hợp lí lẽ với bằng chứng. - KHÔNG: gạch đầu dòng, viết tắt, viết số không đúng quy tắc tiếng Việt, đánh mũi tên, bôi xoá nhiều, dùng bút xoá. III. MỘT SỐ ĐỀ THAM KHẢO ĐỀ 1 I. ĐỌC (6,0 điểm) Đọc văn bản sau: MÙA HOA MẬN Chu Thùy Liên Cành mận bung cánh muốt Lũ con trai háo hức chơi cù Lũ con gái rộn ràng khăn áo Bóng bay nâng ước mơ con trẻ Cành mận bung cánh muốt Giục mẹ xôn xang lá, gạo Giục cha vui lòng căng cánh nỏ Giục người già bản hối hả làm đu Cành mận bung cánh muốt Nhà trình tường ủ hương nếp Giục lửa hồng nở hoa trong bếp Cho người đi xa nhớ lối trở về Tháng Chạp, 2006 (In trong Thuyền đuôi én, NXB Văn hoá dân tộc, Hà nội 2009) Chú thích: Nhà trình tường: Nhà có tường làm bằng đất nện Thực hiện yêu cầu: Câu 1. Bài thơ được viết theo thể thơ nào? Câu 2. Bài thơ Mùa hoa mận viết về đề tài gì? Câu 3. Tìm ít nhất ba từ ngữ, hình ảnh miêu tả thiên nhiên, con người Tây Bắc vào mùa hoa mận. Câu 4. Bài thơ thể hiện tâm trạng, cảm xúc gì của nhân vật trữ tình? Câu 5. Cảm hứng chủ đạo trong bài thơ là gì? Câu 6. Hình ảnh “Cành mận bung cánh muốt” được lặp lại có ý nghĩa gì? Câu 7. Xác định và nêu tác dụng biện pháp tu từ lặp cấu trúc trong khổ thơ sau: Cành mận bung cánh muốt Lũ con trai háo hức chơi cù Lũ con gái rộn ràng khăn áo Bóng bay nâng ước mơ con trẻ Câu 8. Em thích nhất những câu thơ, hình ảnh nào trong bài thơ Mùa hoa mận? Vì sao? II. VIẾT (4,0 điểm) Viết văn bản nghị luận đánh giá nét đặc sắc về nội dung và hình thức nghệ thuật của bài thơ Mùa hoa mận – Chu Thùy Liên.
- 5 ĐỀ 2 I. ĐỌC (6,0 điểm) Đọc đoạn trích sau: BÍ ẨN CỦA LÀN NƯỚC (Trích – Bảo Ninh) Các dòng sông trôi đi như thời gian, và cũng như thời gian, trên mặt nước các triền sông biết bao nhiêu là chuyện đời đã diễn ra. Nhất là về đêm, trên làn nước của dòng sông quê hương tôi lấp lánh hằng hà(1) những đốm sáng bí ẩn, có cả điều bí ẩn của đời tôi. Năm ấy, nhằm trúng đỉnh lũ đêm Rằm tháng Bảy, một loạt bom Mỹ phá tan vệt đê canh giữ đằng trước làng tôi. Dứt dây nổ của bom và tiếng gầm ghê rợn của máy bay cường kích là chuỗi ầm ầm long lở của dòng sông phá bung đê tràn ngang vào đồng ruộng. Từ trên điếm canh(2) tôi chạy lao về làng. Hồi chiều hay tin vợ ở nhà trở dạ nhưng tôi không thể rời vị trí hộ đê(3). Bây giờ giời đất sập rồi, trong tôi chỉ còn con tôi, vợ tôi. Tôi dốc toàn lực bình sinh vào đôi chân. Đằng sau, cơn đại hồng thủy(4) đuổi bén gót. Nước đã ngập làng. Tôi về, kịp dìu vợ leo lên mái. Mái nhà tranh của vợ chồng tôi bị lôi đi trong đêm đen. Đến khi mái rạ(5) sắp rã tan ra thì ơn trời nó vướng vào thân đa trước đình làng. Đã cả một đám đông bám trên các cành. Nhiều bàn tay chìa xuống giúp tôi đỡ vợ con trèo lên. Vợ tôi ôm khư khư đứa con mới sinh, nhất định không để tôi bế đỡ. - Con trai... con trai mà..., con trai... Để yên em ẵm, anh vụng... Nhiều giờ trôi qua. Mưa tuôn, gió thổi. Mực nước không dâng cao hơn, nhưng chảy xiết hơn. Cây đa đầy người hơn. Tôi mỏi nhừ. Tay ôm chặt vợ, tay níu mình vào chạc cây(6). Vợ tôi yếu lả, ướt lướt thướt, lạnh ngắt. Khoảng gần sáng, bỗng có tiếng quẫy nước ngay dưới cành đa của vợ chồng tôì. Một giọng nghẹn sặc với lên: - Cứu mẹ con tôi mấy... cứu mấy... người ơi... Một bàn tay nhớt và lạnh như tay ma rờ(7) vào chân tôi đang buông thõng. Tôi vội cúi xuống, đưa tay ra. Nhưng bàn tay của người đàn bà dưới nước truội đi, chìm nghỉm. Cành đa kêu rắc, chao mạnh. Vợ tôi ối kêu một tiếng thảng thốt, và "ùm", con trai tôi, đứa con sơ sinh tôi chưa được nhìn thấy mặt, tuột khỏi bọc ni lông trên tay mẹ nó, sa xuống làn nuớc tối tăm. - Con tôi ...! - Vợ tôi hét rú lên và lao ngay lập tức xuống nước hòng chụp lấy con. Tôi phóng mình theo. Nước lạnh, ngầu bùn, sâu hút và cuốn mạnh. Tôi vớ kịp thằng con, nhao vội lên, trao nó cho những bàn tay đang chìa xuống, rồi lại lặn tiếp ngay để cứu vợ. Nhiều người phi xuống theo để trợ sức tôi ... Tôi tỉnh lại, thấy trời sáng rồi và đã tạnh mưa. Tôi nằm trong khoang một ca nô cứu nạn đầy ắp ngườì. Hồi đêm, tôi đã vật lộn điên dại quyết sống mái một phen với làn nước giết người, nhưng tôi đã thua cuộc. Ứa ra cả máu tai máu mũi mà không những không cứu nổi vợ, đến thi thể cô ấy cũng bất lực không tìm thấy. Khi ca nô quân đội tới, mọi người đã phải dùng sức để buộc tôi rời mặt nước. Kiệt sức, tôi ngất đi. Khổ đau, tôi tỉnh dậy, nước mắt nóng rực, tê nhói. Một chị phụ nữ chen tới bên tôi, lên lời an ủi: - Phận chị ấy đã vậy, thôi thì anh phải nén lòng lại, giữ sức khoẻ mà nuôi con. Ơn trời, anh còn kịp cứu được cháu. Chao ôi, vừa kịp khóc chào đời đã trải một cơn kinh hoàng hú vía. Anh
- 6 coi con anh này. Cứ như không. Đã bú, đã ngủ rồi đây này. Ngoan chưa này...Ôi chao, nó tè dầm rồi này. Chị nựng nịu, và từ từ giở bọc chăn chiên đang ủ kín con tôì. Chị thay tã cho nó. Tôi nhìn, chết lặng. - Con tôi ... - Tôi òa khóc, đỡ lấy bọc chăn. - Con tôi! Từ bấy tới nay, thời gian trôi qua và triền nước trôi đi, tôi đã có tuổi và con gái tôi đã thành một thiếu nữ. Nó là đứa con của làn nước, mọi người đều nói thế bởi vì chuyện nó sa xuống dòng nước lụt rồi được cha nó cứu lên thì cả làng ai cũng biết. Nhưng điều bí mật kia thì không ai hay, kể cả con gái tôi nó cũng không thể biết. Chỉ có dòng sông biết. Có ngày nào mà tôi không ra đê ngắm làn nước trôi. Vợ tôi, con trai tôi và người đàn bà vô danh nhìn tôi từ đáy nước. Thời gian, năm tháng cứ trôi, dòng sông và lịch sử, tất thảy đều đổi thay nhưng mà niềm đau của đời tôi thì khôn nguôi bởi vì ấy là một niềm đau không thể nói nên lời. (Trích Những Truyện Ngắn Bảo Ninh, NXB Trẻ, 2013, tr11-12) Chú thích: Nhà văn Bảo Ninh tên khai sinh là Hoàng Ấu Phương, sinh năm 1952 tại Diễn Châu, tỉnh Nghệ An. Quê ông ở Xã Bảo Ninh, huyện Quảng Ninh (nay thuộc thành phố Đồng Hới), tỉnh Quảng Bình. Bảo Ninh được biết tới với những tác phẩm viết về đề tài chiến tranh và thời hậu chiến. Ông là nhà văn có nhiều đóng góp quan trọng trong công cuộc đổi mới văn xuôi Việt Nam hiện đại giai đoạn từ sau năm 1975. (1) Nhiều không đếm xuể (2) Nhà nhỏ làm nơi trông giữ đê điều, hoa màu. (3) Bảo vệ đê để phòng lũ lụt (4) Trận lụt lớn. (5) Mái nhà lợp bằng phần thân còn lại của cây lúa sau khi gặt. (6) Chỗ cành cây rẽ thành nhiều nhánh. (7) Sờ. Thực hiện yêu cầu: Câu 1. Trong đoạn trích trên, người kể chuyện là ai? Câu 2. Đoạn trích được viết theo thể loại nào? Câu 3. Chỉ ra điểm chung về cảnh ngộ của nhân vật tôi và em bé được cứu. Câu 4. Vì sao sau khi cứu được từ dòng nước lũ, nhìn người phụ nữ thay tã cho con, nhân vật tôi lại chết lặng? Câu 5. Xác định thông điệp quan trọng nhất của văn bản? Câu 6. Theo anh/chị, nhân vật “tôi” nên giữ bí mật suốt đời về sự việc hay nên nói ra? Vì sao? Câu 7. Bài học sâu sắc nhất mà anh/chị nhận được sau khi đọc văn bản trên? Câu 8. Xác định lỗi thành phần trong các câu sau và nêu cách sửa: a. Thứ tiếng Việt mà giới trẻ đang sử dụng một cách thiếu chuẩn mực, pha tạp, viết tắt tuỳ tiện trên các phương tiện truyền thông, không gian mạng. b. “Số đỏ” không chỉ là một tác phẩm trào phúng mà còn tác phẩm đặc sắc vào bậc nhất trong văn học Việt Nam trước năm 1945. II. VIẾT (4,0 điểm) Anh/chị hãy viết bài văn thuyết minh về chiếc áo dài của người phụ nữ Việt Nam, trong bài văn có lồng ghép một hay nhiều yếu tố như miêu tả, tự sự, biểu cảm, nghị luận.
- 7 ĐỀ 3 I. ĐỌC (6,0 điểm) Đọc đoạn trích sau: VÀO CHÙA GẶP LẠI (Trích – Minh Chuyên) [ ] Qua gần chục ngôi chùa, tôi dừng lại một ngày để đến chùa Đông Am, xã Quang Bình, huyện Kiến Xương. Ngôi chùa có sư Đàm Thân. Tôi thật không ngờ, Thân vừa tu hành, vừa nhận nuôi dưỡng năm đứa trẻ tàn tật, con của những người đồng đội bị nhiễm chất độc da cam, bố mẹ đều đã chết. Người y sĩ tôi gặp ở binh trạm 31 hơn hai mươi năm trước, giờ đây gặp lại đã trở thành vị “bồ tát” nhân từ đang ngồi trước mặt chúng tôi. Đàm Thân vừa đi giám định nâng loại thương tật về. Cùng đến thăm chùa, tôi mời cả chị Vũ Thị Bích, người đã có một thời sống với nhà sư ở chiến trường. [...] Đàm Thân ngồi trầm lặng, ngước nhìn lên, vẻ mặt xa xăm, mắt chớp chớp hồi nhớ một thời đã qua. Thân kể: Từ binh trạm 31 của đoàn 559, Thân chuyển về làm bệnh xá phó của trung đoàn 8. Ít lâu sau được cử ra miền Bắc học tập, nhưng Thân đã tình nguyện ở lại phục vụ hết chiến dịch mới ra. Giữa những ngày ấy, Thân nhận được tin do một người bạn từ Tây Ninh ra cho biết: Nguyễn Hồng Quân, người yêu của Thân đã hi sinh. Chết chóc chiến trường là chuyện thường tình, nhưng tin Quân tử trận vẫn làm Thân bàng hoàng đau đớn. Bởi với Thân, anh là một nửa sự sống của cô. Những ngày hăm hở lao vào phục vụ chiến đấu nơi mặt trận cũng một phần vì anh. Thân hi vọng khi đất nước thống nhất, Thân và anh sẽ trở về mãi mãi sống hạnh phúc bên nhau. Vậy mà Quân không còn. Anh hi sinh, Thân đau xót cảm như một nửa dời mình. “đã chết”. Nhưng rồi chiến trường chẳng cho ai buồn lâu, nhớ lâu. Nhiệm vụ dồn dập đến, Thân theo đoàn xe chở bộ đội về Lao Bảo – Quảng Trị. Ngày 12 tháng 2 ăm 1975, cái ngày tiến quân ào ào như cơn lốc ấy, Thân bảo: suýt nữa đời cô đã đi vào cõi vĩnh hằng. Hôm đó, đoàn xe vừa lên tới đỉnh dốc Chu Linh thì máy bay địch ập đến bắn phá. Khói bom và đất đỏ tung bay mịt trời. Đoàn xe trúng bom khựng lại, nhiều chiếc bốc cháy, xô đổ, lao xuống vực sâu. Thân bị ba vết thương ở đầu, ở gối và ở cột sống, bất tỉnh. Cô được đưa tới một đội điều trị dã chiến sơ tán trong dân. Khi tỉnh lại, biết mình sống được là nhờ hai chiến sĩ cùng đơn vị khiêng đi cấp cứu và hiến máu tình nguyện để cứu cô. Khi quay về, hai chiến sĩ ấy đã hi sinh vì trúng pháo bầy của địch, nên Thân cứ nằm thương khóc hoài. Cơ sở Thân nằm điều trị là một gia đình Phật tử, thờ Phật tại gia. Thân bảo ngày ngày đều đặn cô được nghe gia chủ thỉnh kinh gõ mõ. Lời kinh Phật nhân từ, sâu lắng làm tâm hồn cứ lâng lâng du mộng, sau này, Thân mới hiểu đó là Báo ân chân kinh và kinh Pháp hoạ, Thân bảo: “Thế là từ đó đạo Phật cứ ngấm dần, ngấm dần rồi chuyển hoá tôi. Tôi bắt đầu học chữ Nho, học ngay khi đang nằm điều trị.”. [...] Khi lành vết thương, cũng là lúc tiếng súng trên chiến trường miền Nam im hẳn. Cuộc chiến kết thúc, với 62% thương tật, Lương Thị Thân trở về Nam Cường – Tiền Hải hưởng chế độ thương binh 2/4. Về quê, xanh xao những cơn sốt rét rừng Trường Sơn đã “biến mất”, sức khoẻ dần dần hồi phục. Nét đẹp duyên dáng của người con gái làng biển lại thức dậy trên đôi má trắng tròn và mái tóc dài óng mượt của Thân.
- 8 Trai làng có người để ý. Nhưng từ lâu Thân đã ấp ủ nguyện ước phó thác cuộc đời nơi Tam bảo. Phần thì để giữ trọn mối tình đầu thuỷ chung với Hồng Quân, người là nửa sự sống của đời cô. Phần vì giấc mơ ngày ở chiến trường luôn luôn linh ứng ám ảnh. Thân muốn được cầu nguyện cho ân nhân của mình, cho những người đồng đội, cho cả anh Quân nữa để vong linh họ siêu thoát, thi thể họ nguyên lành. Thân bảo đi chùa: “Đâu vì thân độ đấng thân Mà mong đồng đội trầm luân vẹn toàn". Những ngày đầu, bố mẹ Thân ngăn cấm không cho xuất gia. Cô phải trốn đi. Thương con, bố Thân lặn lội lên rừng, xuống biển hơn tháng trời mới tìm thấy cô ở động Hương Tích. Ông bắt Thân về “xuất giá tòng phu”. Về nhà, Thân vẫn quyết chí hướng tới cửa Phật, kiên trì thuyết phục xin cha mẹ cho được đi tu. Thấy chí con không đổi, cuối cùng thầy mẹ cô dành chấp nhận. [...] Vào chốn linh thiêng, tâm hồn được thanh thản, thể xác được an nhàn. Có người nghĩ thế. Đàm Thân bảo: đó chỉ là ảo vọng và cho rằng ở chốn linh thiêng con người tu luyện không chỉ bằng tâm thể mà còn phải bằng hành thể. Nghĩa là ngoài đọc kinh, hành đạo còn phải “xắn tay” xốc vác những công việc của người đời. Đàm Thân bảo: - Ba giờ sáng dậy làm vệ sinh. Bốn giờ lên thỉnh một hồi chuông, sau đó vào tụng kinh đến sáu giờ. Ban ngày tăng gia sản xuất. Chín giờ tối đến một giờ đêm lại tĩnh tâm niệm Phật. Sáng chiêu, tối mộ), là bổn phận của nhà chùa. Nghe thời gian làm việc sít sịt ngày và đêm. Quả là ở chốn linh thiêng, con người tu luyện cũng phải có nghị lực rất lớn. Lên bậc sư thầy, Thân vẫn chẳng nề hà việc chi. Đi đâu, tới chùa nào Thân cũng được mọi người mến mộ, kính nể. Ở chùa Đông Am, vừa lễ Phật, cầu kinh, sư thầy Đàm Thân vừa xốc vác cùng mọi người tu sửa, cải tạo, mở mang, biến ngôi chùa này, một di tích lịch sử văn hoá được xếp hạng, vốn hoang tàn, thành ngôi chùa cảnh sạch cỏ, đỏ nhang. Từ ngày Đàm Thân về trụ trì, chùa Đông Am liên tục đoạt danh hiệu chùa “bốn gương mẫu”. Khi trao đổi với Uỷ ban Mặt trận huyện Kiến Xương tôi mới hay: Sở dĩ Đông Am là chùa gương mẫu vì sư thầy Đàm Thân không để các tạp giáo, bá đạo len lỏi vào chùa. Không lợi thế cửa Phật để làm những điều nhảm nhí, mê tín, đồng bóng, xóc thẻ, yểm bùa, đốt mã, gọi hồn,... [...] Thân đang ngồi xếp bằng, một tay gõ mõ, một tay gõ chuông, lòng tĩnh tâm, miệng dọc kinh niệm Phật. Đêm khuya thanh vắng, tiếng chuông càng ngân vang. Bỗng lòng dạ bồn chồn như có người mong đợi. Cố đọc hết hai quyển kinh Di đà và kinh Phổ môn, gấp lại, tay xách cây đèn bão, Thân lững thững bước ra. Thoáng ánh đèn, bất chợt thấy khuôn mặt một người đàn ông đứng bên gốc cây đại, sát mái hiên chùa. Thân bàng hoàng nhận ra khuôn mặt ấy rất giống Hồng Quân – người yêu của cô. Đứng lặng người trong trạng thái như vừa mê, vừa tỉnh. Thân chợt nghĩ, trong những năm tháng cầu nguyện cho Quân, bây giờ vong linh anh ấy đã hiện hình.
- 9 - Mô Phật. – Thân từ từ nâng một bàn tay lên chắp trước mặt, miệng lẩm bẩm mô Phật – Cầu mong cho anh mau chóng siêu thoát, sống khôn chết thiêng, phù hộ cho mẹ cha và Thân mạnh khoẻ. Người đàn ông nghe Thân lẩm bẩm, từ gốc cây đại khẽ khàng bước ra, miệng nói: - Không! Anh là Quân đây. Anh còn sống. Anh mới về, Thân không nhận ra sao? Thân mơ hồ rồi bừng tỉnh. Một tay giơ cây đèn, một tay chia lên phía trước run run, mắt chăm chăm nhìn, miệng nói líu lại: - Anh là ... Quân thật ư? [ ] Thân chối từ mãi, Quân vẫn van vi, tha thiết khuyên cô xa rời cõi hư vô về với tổ ấm gia đình. Thân đành phải nói rõ thân phận của mình, nói cái điều mà cô chưa hề thổ lộ cùng ai. Đó là do hậu quả di chứng chất độc da cam và vết thương cột sống. Nó thường xuyên làm nửa người phía dưới của Thân tê dại. Bác sĩ đã kết luận Thân không còn khả năng... Thân không thể đem lại tương lai và hạnh phúc cho Quân được. Chỉ có ở nơi hư vô cửa Phật, lòng Thân mới bớt nỗi sầu đau. Nghe Thân giãi bày, Quân đau đớn ngồi im, thương quá mà lực bất tòng tâm. Những ngày yêu nhau trong đạn bom, hai người thầm mong ước, bao giờ hết giặc, họ sẽ về mãi mãi sống bên nhau. Vậy mà hết chiến tranh rồi, tiếng bom vẫn âm thầm nổ trong “lòng họ”. Chiến tranh đã cướp mất tình yêu. Thân lau nước mắt, khẽ nói chỉ đủ hai người nghe rõ: - Ở nơi cửa thiền, em sẽ cầu nguyện cho anh có cuộc sống mới luôn luôn tốt lành và hạnh phúc! Rồi đêm đó hai người chia tay nhau. [ ] Thân khẽ gật đầu. Bỗng cửa chùa có khách vào dâng lễ. Mô Phật, sư thầy Đàm Thân đứng dậy, vẫn cái dáng đi hơi lệch, tập tễnh trong bộ quần áo nâu sẫm, tay cầm quyển kinh Pháp hoa, thư thả bước lên chùa. Nhìn bóng Đàm Thân khuất sau cánh cửa Tam bảo, tôi chợt nhớ lời nhà sư nói về sự linh ứng của kinh Pháp hoa, và cứ mường tượng như thể mình đã nhìn thấy hoa của lòng người. (In trong Người lang thang không cô đơn, Truyện kí, tái bản lần thứ 3, NXB Văn học, Hà Nội, 2018) Tác giả văn bản Vào chùa gặp lại: - Nhà văn Minh Chuyên, tên khai sinh là Nguyễn Minh Chuyên, sinh năm 1948. - Quê quán: Xã Minh Khai – Vũ Thư – Thái Bình - Ông là nhà văn quân đội, nhà báo, đạo diễn phim tài liệu để lại nhiều tác phẩm có giá trị trong nhiều thể loại như truyện ngắn, truyện kí, tiểu thuyết, kịch bản văn học về đề tài hậu chiến. Ông được Tổ chức Kỷ lục Việt Nam xác lập Kỷ lục là nhà văn sáng tác đề tài hậu chiến tranh Việt Nam nhiều nhất. - Phong cách nghệ thuật: tinh tế, nhẹ nhàng, sâu lắng, giàu cảm xúc chân thành - Tác phẩm chính: Người lang thang không cô đơn, Thủ tục làm người còn sống, Vào chùa gặp lại, Nước mắt làng, Di họa chiến tranh,...
- 10 Thực hiện yêu cầu: Câu 1. Nêu đặc điểm thể loại của văn bản Vào chùa gặp lại? Câu 2. Nhân vật “Tôi” gặp người nữ quân y trong tình huống nào? Câu 3. Xác định yếu tố phi hư cấu và hư cấu trong văn bản Vào chùa gặp lại. Câu 4. Tác giả đã thể hiện tình cảm, thái độ gì đối với Đàm Thân qua câu nói: Nhìn bóng Đàm Thân khuất sau cánh cửa Tam bảo, tôi chợt nhớ lời nhà sư nói về sự linh ứng của kinh Pháp hoa, và cứ mường tượng như thể mình đã nhìn thấy hoa của lòng người? Câu 5. Câu chuyện ở chiến trường hơn hai mươi năm trước của nữ quân y Lương Thị Thân có gì đặc biệt? Câu 6. Từ câu chuyện của các nhân vật trong văn bản, anh/chị có suy nghĩa gì về sự hi sinh của nhân dân ta trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc? Câu 7. Theo anh/ chị, câu chuyện muốn truyền đạt tới người đọc thông điệp gì? Điều đó có ý nghĩa như thế nào đối với cuộc sống hôm nay? Câu 8. Hãy xác định kiểu lỗi, phân tích nguyên nhân và sửa lỗi cho các câu sau: a. Với hình tượng Chí Phèo đã thâu tóm mọi khát vọng nóng bỏng của thời đại, còn kéo dài tới nay: đó là khát vọng hoàn lương, khát vọng đổi đời. b. Đã vẽ bức tranh tường hoành tráng này một nhóm họa sĩ đến từ thành phố. II. Viết (4,0 điểm) Em hãy viết bài văn thuyết minh về Văn miếu Quốc tử giám (ở Hà Nội), bài viết có lồng ghép một hay nhiều yếu tố như miêu tả, tự sự, biểu cảm, nghị luận. ---Hết---

