8 Đề kiểm tra cuối học kì I môn Ngữ văn 9 (Có đáp án + Ma trận)
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "8 Đề kiểm tra cuối học kì I môn Ngữ văn 9 (Có đáp án + Ma trận)", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
8_de_kiem_tra_cuoi_hoc_ki_i_mon_ngu_van_9_co_dap_an_ma_tran.docx
Nội dung text: 8 Đề kiểm tra cuối học kì I môn Ngữ văn 9 (Có đáp án + Ma trận)
- MA TRẬN ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ I MÔN NGỮ VĂN, LỚP 9 Tổng Mức độ nhận thức Kĩ Nội dung/đơn % điểm TT năng vị kiến thức Nhận Thông Vận Vận biết hiểu dụng dụng cao 1 Đọc 1. Truyện hiểu 2. Thơ 2 2 1 0 50 3. Tùy bút 2 Viết 1. Phát biểu cảm nghĩ về 1* 1* 1* 1* 50 con người. Tổng 2 2 1 1 Tỉ lệ % 10% 20% 20% 50% 100% Tỉ lệ chung 50% 50% Ghi chú: Phần viết có 01 câu bao hàm cả 4 cấp độ. Các cấp độ được thể hiện trong Hướng dẫn chấm. CẤU TRÚC ĐỀ KIỂM TRA CUỐI HỌC KÌ I MÔN: NGỮ VĂN LỚP 9 - THỜI GIAN LÀM BÀI: 90 PHÚT Mức độ đánh giá Phần Nội dung Điểm Nhận biết Thông hiểu Vận dụng 1. Ngữ liệu: - Truyện thơ - Truyện thơ Nôm: - Rút ra được - Truyện thơ Nôm: + Nêu được nội bài học từ nội Nôm + Nhận biết được dung bao quát của dung văn bản. một số yếu tố của văn bản. -VB nghị luận Thể hiện thái truyện thơ Nôm độ đồng tình / văn học + Phân tích được như: cốt truyện, không đồng một số yếu tố của 2. Tiêu chí lựa nhân vật, lời tình / đồng tình truyện thơ Nôm chọn ngữ liệu: thoại. một phần với Đọc như: cốt truyện, Một đoạn trích/ những vấn đề hiểu + Nhận biết được nhân vật, lời thoại, một văn bản đặt ra trong văn hoàn chỉnh sự khác nhau giữa nghệ thuật miêu tả bản. ngoài sách giáo cách dẫn trực tiếp khoa. và cách dẫn gián 1
- tiếp trong truyện nội tâm nhân vật - Liên hệ được thơ Nôm. trong truyện thơ. ý tưởng, thông điệp trong văn + Phân tích, lí giải bản với bối được chủ đề, tư cảnh lịch sử, tưởng, thông điệp văn hoá, xã hội. của truyện thơ. -VB nghị luận - Nhận xét, -VB nghị luận văn văn học: đánh giá tính học: + Nhận biết được chất đúng và + Nêu được nội luận đề, luận sai của vấn đề điểm, lí lẽ và dung bao quát của đặt ra trong văn bằng chứng tiêu văn bản. bản nghị luận. biểu trong VB - Phân tích được nghị luận. mối liên hệ giữa - Nhận biết được luận đề, luận sự khác nhau giữa điểm, lí lẽ và bằng cách dẫn trực tiếp chứng. và cách dẫn gián + Lí giải được vai tiếp trong văn trò của luận điểm, bản. lí lẽ và bằng chứng; vai trò của luận điểm, lí lẽ, bằng chứng trong việc thể hiện luận đề. + Phân biệt được cách trình bày vấn đề khách quan (chỉ đưa thông tin) và cách trình bày chủ quan (thể hiện tình cảm, quan điểm của người viết). Số câu 02 02 01 Số điểm 1,0 2,0 2,0 5,0 Viết bài văn Viết được một nghị luận phân văn bản nghị Viết tích một tác luận phân tích phẩm truyện một tác phẩm văn học: phân tích nội dung chủ đề, những nét đặc sắc về 2
- hình thức nghệ thuật của tác phẩm và hiệu quả thẩm mĩ của tác phẩm. Số câu 01 Số điểm 5,0 5,0 Tổng điểm toàn bài 10,0 ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ I MÔN NGỮ VĂN 9 - SÁCH KNTT NĂM HỌC 2024-2025 ĐỀ 1: I. ĐỌC – HIỂU (5,0 điểm) Đọc đoạn trích sau và thực hiện yêu cầu: TỐNG TRÂN – CÚC HOA (Truyện thơ Nôm khuyết danh) (Trích) Mẹ chồng thấy dâu thảo hiền Đôi hàng nước mắt chảy liền như tuôn. Khó nghèo có mẹ có con, Ít nhiều gan sẻ (1) vẹn tròn cho nhau Lòng con nhường nhịn bấy lâu Mẹ ăn cơm ấy ngon đâu hỡi nàng Cúc Hoa nước mắt hai hàng: “Lạy mẹ cùng chàng chở quản (2) tôi Gọi là cơm tấm cạnh lê (3) Mẹ ăn đỡ dạ kéo khi võ vàng (4) Chàng ăn cho sống mình chàng, Dốc lòng kinh sử văn chương đạo là. Kể chi phận thiếp đàn bà, Khó nghèo chớ quản nỗi nhà thảm thương”. Thương con mẹ giấu cho vàng, Bảo rằng gìn giữ để nương tựa mình. Cúc Hoa trong dạ đinh ninh: “Lạy mẹ còn có chút tình thương con”. Tức thì trở lại phòng môn, Cầm tay đánh thức nỉ non bảo chồng: “Chàng ơi xin tỉnh giấc nồng, Nay vàng mẹ thiếp cho dùng một chương” Kể đoạn Cúc Hoa bán vàng, Bán cho trưởng giả giàu sang hơn người. Hai bên giả cả hẳn hoi, Bắc cân định giả được ngoài tám mươi. 3
- Cúc Hoa trở lại thư trai (5) “Khuyên chàng kinh sử dùi mài cho hay. Thiếp xin rước một ông thầy, Để chàng học tập đêm ngày thiếp nuôi”. Một ngày ba bữa chẳng rời, Nuôi thầy, nuôi mẹ lại nuôi cả chồng. Nàng thời nhiều ít cũng xong Đói no chẳng quản miễn chồng làm nên. Khấn trời lạy Phật đòi phen: “Chứng minh phù hộ ước nguyền chồng tôi. Khuyên chàng khuya sớm hôm mai, Cố chăm việc học đua tài cho hay. Một mai, có gặp rồng mây (6) Bảng vàng may được tỏ bày họ tên (7) Trước là sạch nợ bút nghiên (8) Sau là thiếp cũng được yên lòng này”. (Theo bản in của NXB Phổ thông Hà Nội năm 1961, Bùi Thức Phước sưu tầm & biên soạn, NXB Hội nhà văn, 2012) Chú thích: (1) Gạn sẻ: Gạn - chắt lọc và sẻ - chia sớt, chia nhỏ (2) Quản: e ngại, ngại ngùng. Chở quản: không e ngại, quan tâm. (3) Canh lê: canh nấu bằng rau lê; người nghèo thường ăn loại rau này. (4) Võ vàng: gầy và da không hồng hào vì thiếu máu. (5) Thư trai: phòng đọc sách, phòng học (6) Rồng mây: hội rồng mây, cơ hội người đi thi đậu làm nên danh phận cao sang như rồng gặp mây. (7) Bảng vàng: bảng màu vàng dùng để ghi tên thí sinh thi đỗ. (8) Nợ bút nghiên: cha mẹ lo cho ăn học, thầy dạy cho chữ nghĩa. Đó là nợ của học trò. (Tóm tắt tác phẩm: Tống Trân là con cầu tự của một cự phủ ở huyện Phù Hoa, đời vua Thái Tông. Lên ba tuổi thì cha mất, lên tám tuổi thì phải dắt mẹ đi ăn mày. Hôm ấy, Tống Trân dắt mẹ tới nhà của một trưởng giả, con gái của trưởng giả thương tình mang gạo ra cho thì bị cha bắt gặp, bèn bắt nàng lấy Tống Trân làm chồng, và đuổi khéo ra khỏi nhà. Dù vậy, Cúc Hoa vẫn chăm chỉ việc nhà, nàng bán cả vàng mẹ cho để rước thầy về dạy chồng học. Học được nửa năm, vua mở hội thi. Tống Trân tham dự kỳ thi cùng năm nghìn công sĩ. Chàng đậu Trạng nguyên được vua ban áo mão và gả công chúa cùng tuổi cho chàng. Tống Trân lấy nhà nghèo mà từ chối, được vua cho vinh quy bái tổ. Chưa vui sum họp được bao ngày thì Tống Trân phải từ biệt Cúc Hoa về triều nhận chiếu chỉ đi sứ nước Tẩn dài tới mười năm do vua nghe lời tấu xin của công chúa. Tới nước Tần, nhờ trí thông minh và tài khôn khéo Tống Trận không chỉ thoát được những lần hãm hại mà còn giúp vua Tần xử nhiều vụ án rắc rối. Thế nên từ tâm trạng khinh ghét vua Tần chuyển sang mến phục, phong cho “lưỡng quốc Trạng nguyên” và gả công chúa cho chàng. Một lần nữa Tống Trân viện cớ từ chối. Vua Tần không căm ghét mà lại cho xây nhà ở nội thành giúp vua. Ở quê nhà, Cúc Hoa một lòng một dạ, làm lụng vất vả nuôi mẹ, chờ chồng. Thấy Tống Trân bảy năm chưa về, trưởng giả sai người gọi Cúc Hoa về. Khuyến dụ con gái không được, trưởng giả bèn nhốt và hành hạ nàng. Trưởng giả còn bắt mẹ của Tống Trân xuống ở trong chuồng trâu. Quá đau khổ và quyết thủ tiết chờ chồng, đêm hôm ấy Cúc Hoa trốn khỏi nhà. Đến núi Sơn Vi, nàng định quyên sinh. Thần Sơn Tinh hiểu rõ tình cảnh, hóa thành mãnh hổ, mang 4
- thư của nàng qua nước Tần trao tận tay Tống Trân. Nhận được thư, Tống Trân mang vào triều tâu lên vua. Vua Tần cảm động khen ngợi. Và đồng ý cho Tống Trân về nước trước kỳ hạn năm tháng. Tống Trân trả lời thư cho Cúc Hoa và nhờ mãnh hổ mang về. Ở nhà, Phú ông đi tìm gặp và đưa Cúc Hoa về rao gả cho đình trưởng. Qua ba năm ở rể của đỉnh trưởng, trưởng giả tổ chức đám cưới linh đình. Cùng lúc ấy Tống Trân trên đường về. Tới đầu làng, biết rõ nguồn cơn, chàng đóng vai người ăn mày vào xin ăn. Chàng len lỗi khắp nhà, tai nghe mắt thấy cảnh Cúc Hoa khóc chồng, thương mẹ chồng, xuống chuồng trâu gặp và nói chuyện cùng mẹ. Tống Trân gặp và biết suy nghĩ, cách đối xử của tất cả mọi người trong tiệc cưới. Tới ngày đình trường rước dâu, Tống Trận cùng quân sĩ xuất hiện. Chàng xét xử phân minh, mẹ con và vợ chồng đoàn tụ. Ở nước Tần, công chúa Bạch Hoa xin vua cha cho qua Nam Việt sum họp cùng Tống Trân. Giữa biển khơi đoàn ghe tàu bị giông bão đánh chìm, công chúa trôi dạt vào núi Cô Hồng, được bầy hươu rừng cứu sống, nuôi dưỡng. Tống Trân đi săn hươu gặp và đưa công chúa về nhà, phân chia ngôi thứ, gia đình hạnh phúc.) Câu 1 (0,5 điểm). Đặc điểm của truyện thơ trong văn bản trên được thể hiện ở những phương diện nào? Câu 2 (0,5điểm). Lời thoại ““Lạy mẹ còn có chút tình thương con” là kiểu lời thoại nào? Của ai với ai? Câu 3 (1,0 điểm). Nội dung chính của đoạn trích trên là gì? Câu 4 (1,0 điểm). Xác định ngôi kể trong đoạn trích trên và nêu tác dụng của việc sử dụng ngôi kể đó? Câu 5 (2,0 điểm). Có ý kiến cho rằng: đoạn trích cho ta thấy quan điểm tiến bộ của tác giả về mối quan hệ mẹ chồng – nàng dâu trong xã hội phong kiến xưa. Em có đồng tình với ý kiến trên không? Vì sao? II. VIẾT (5,0 điểm) Hãy phân tích truyện ngắn “Anh Hai”. (Tác giả: Bùi Quang Minh) ANH HAI Mẹ nói số anh Hai là số khổ. Ngủ thì không nằm trên giường mà cứ phải "kẻo cà kẻo kẹt" lắc lư trên võng mới ru được giấc nồng. Cả nhà đi ăn tiệc ở nhà hàng. Làm gì thì làm, cụng ly với ai thì cụng, bận sau cùng Hai cũng "len lén" chọn chiếc ghế sát cửa để ngồi. Nhắm nhắm không ai để ý, Hai trốn ra ngoài bậc thềm ngắm trời nhìn mây. Vậy mà... lòng Hai lại tự tại hơn nhiều! Ở nhà, cơm trong nồi, Hai chỉ ăn phần cơm cháy dưới đáy, cơm thịt thì chê "nhạt nhẽo" con không nuốt được! Cha má thấy vậy ôm Hai khóc dữ lắm. Chỉ có lũ em thì vẫn há miệng... lùa cơm!!! Nhà nghèo, nó cám cảnh gì đâu không biết... Xong lớp 9, Hai dùng dằng một hai đòi nghỉ học. Hai lang thang kiếm việc làm phụ cha má kiếm tiền nuôi em đi học. Mà có phải ít đâu, sau Hai còn có cả bảy đứa loi nhoi lúc nhúc như bầy heo con "chờ sữa...!" Nhờ có sự hy sinh thầm lặng của Hai, mà bảy đứa em thì đúng bảy vinh hiển rạng rỡ tổ tông. Cả thảy đều thành ông nọ bà kia. Rồi cũng 5
- một tay Hai tìm hiểu chọn vợ dựng chồng cho các em. Nước đẩy thuyền trôi - bông Lục Bình bị mạn thuyền nghiền nát... Ngày gái út (đứa em thứ thứ 7) vu quy theo chồng, nhà hàng tiệc cưới Minh Anh (Phường Cát Lái Quận 2) cái nhà hàng to tổ bố nhất quận. Chiếc ghế cha má bị bỏ trống. Từ trước lúc thằng Ba lấy vợ thì cha má đã lần lượt bỏ cả nhà mà đi. Có còn ai nữa đâu để mà ngồi vào. Cả nhà dòm qua dòm lại như "gà con lạc mẹ" nháo nhác đi tìm Hai. Hàng loạt tiếng gọi thất thanh vang lên: - Anh Haiiiiii...! Hai ơi...! - Hai ơi... út tìm hai nè...! Hai lặng lẽ đứng bên kia đường nhìn qua hôn trường. Đoạn đường này xe container kéo nhau chạy rầm rầm từ vòng xoay đi lên. Dòng xe nườm nượp lướt qua bỏ lại Hai một mình trơ trọi. Bộ Vest trên người Hai chợt... run lên bần bật! Hai ít học thiệt. Nhưng Hai cũng nhìn ra được một thứ sự thật phũ phàng, trong đó toàn người có học thức, địa vị xã hội, sự xuất hiện của mình chỉ khiến các em xấu hổ thêm mà thôi! Xòe tay mình ra, Hai không còn thấy đâu là những đường chỉ tay nữa. Mà hằn lên đó là chồng chồng lớp lớp những vết "cào cấu của thời gian!" Viết trọn vẹn một dòng chữ tên của mình, Hai còn toát cả mồ hôi. Dáng đứng xiêu vẹo qua tháng năm hy sinh vì đàn em. Một cái gì đó dâng lên nơi cuống họng Hai bứng nghẹn. Hai có một chút tủi phận... nhưng thiệt là nhanh cảm giác đó bị dập tắt. Hai ngước nhìn lên trời xanh mà thầm nói trong nghẹn ngào "... cha má ơi... rốt cuộc thì con cũng đã làm được điều cha má căn dặn...!" Hai mỉm cười xoay người tính bước đi. Bỗng cánh tay bị níu lại. Cô em út trong chiếc xoa-rê trắng tinh khôi khư khư giữ vạt áo Hai. Út quỳ xuống: - ... Hai ơi... Hai đừng đi bỏ út... Hai không những là Hai mà Hai còn là cha là má... Hai ơi!!!!! Hai chợt rùng mình và ngơ ngác khi thấy 6 đứa còn lại cũng đang tèm lem nước mắt! Ôm chầm bảy đứa em lớn xác mà còn mít ướt của mình vào lòng. Tụi nó giờ lớn quá, có còn nhỏ dại như ngày nào được một tay Hai che chở nữa. Bất giác Hai nhận ra một điều rằng công sức cả đời mình đã không uổng phí........ (Tác giả: Bùi Quang Minh) B. GỢI Ý TRẢ LỜI. Câu Đáp án Điểm 1 - Đặc điểm của truyện thơ trong văn bản: Có sự việc, cốt truyện, nhân vật và 0,5 được kể bằng văn vần. 2 - Lời độc thoại Cúc Hoa nói với chính mình. 0,5 6
- 3 - Nội dung chính: Ca ngợi vẻ đẹp phẩm chất (hiếu thảo, thủy chung) của 1,0 người phụ nữ trong xã hội phong kiến xưa. 4 - Ngôi kể: thứ ba. 1,0 - Tác dụng: + Làm cho câu chuyện trở nên khách quan, chân thực, thuyết phục người đọc, người nghe. + Làm nổi bật vẻ đẹp của nhân vật Cúc Hoa, một người rất mực hiếu thảo, thủy chung. + Thể hiện thái độ yêu mến, ngợi ca của tác giả đối với Cúc Hoa. 5 - Hs bày tỏ quan điểm của mình. 2,0 - Gợi ý: hs có thể thể hiện sự đồng ý. - Vì : trong xã hội phong kiến xưa thông thường mối quan hệ giữa mẹ chồng – nàng dâu là mối quan hệ nhiều mâu thuẫn.Nhưng trong đoạn trích mẹ chồng và nàng dâu hết mực yêu thương, hòa thuận, nàng dâu hiếu thảo khiến mẹ chồng cảm động, sẵn lòng đồng cam cộng khổ không lời oán trách Mẹ chồng thấy dâu thảo hiền Đôi hàng nước mắt chảy liền như tuôn. Khó nghèo có mẹ có con, Ít nhiều gan sẻ (1) vẹn tròn cho nhau => Thể hiện cái nhìn tiến bộ của tác giả. MB - Giới thiệu tác giả, tác phẩm 0,5 - Nêu cảm nghĩ/ ấn tượng chung của em về truyện. TB a. Khái quát nội dung truyện: Gia đình nhà anh Hai nghèo, cha mẹ anh sinh được tám anh em, anh là con cả trong gia đình. Ngay từ nhỏ anh đã biết nhường nhịn các 3,5 em. Học xong lớp 9 anh nghỉ học để đi làm cùng cha mẹ nuôi các em ăn học. Khi cha mẹ mất, anh thay cha mẹ tiếp tục chăm lo nuôi nấng các em thành đạt. Và các em cũng nhận ra sự hi sinh lớn lao của anh. Câu chuyện ngắn gọn, nhà văn tạo dựng bối cảnh đơn giản nhưng lại giúp nhà văn thể hiện rõ tính cách, phẩm chất, vẻ đẹp tâm hồn của các nhân vật. b. Phân tích những đặc sắc về nội dung của truyện: + Truyện khắc họa nhân vật anh Hai đó chính là tình yêu thương, sự nhường nhịn, lòng nhân hậu, giàu đức hi sinh dành cho gia đình, cho các em. *Người anh khi còn bé: - Hoàn cảnh gia đình: Nghèo, ba mẹ sinh được tám đứa con -> Bám riết của cảnh nghèo đổ dồn lên bao nhiêu con người từng ngày vật lộn cùng miếng cơm manh áo. -Tính cách của anh Hai: Ngay từ nhỏ không nằm giường, mọi người ăn uống vui 7
- đùa, mình thích một góc riêng -> Chất chứa nỗi buồn, sự khổ cực từ thuở nhỏ in sâu vào số phận nhân vật. - Hành động: Ăn cơm cháy, chê cơm thịt -> Sự trưởng thành, biết lo lắng quan tâm cho các em, biết nhường nhịn và gánh vác cái nghèo cùng ba mẹ. -> Xây dựng nhân vật mang nét riêng độc đáo, tạo sự thu hút đối với người đọc. *Người anh khi lớn: - Hành động: + Nghỉ học từ lớp 9, đi làm lo cho gia đình: Gánh vác cùng cha mẹ việc kinh tế, là người biết hi sinh, nhân hậu. + Nuôi em thành tài, dựng vợ, gả chồng hết cho các em: Lo lắng như một người cha hiền hậu đối với đàn con thơ, còn mình cô đơn, lẻ loi một mình - Suy nghĩ: + Mình vào đám cưới của em sợ các em xấu hổ: Giữ thể diện cho các em tới cùng, nghĩ mình kém cỏi, không phù hợp với chốn lộng lẫy xa hoa. + Chợt tủi phận: Nghẹn ngào vì sự vất vả, khó nhọc cả đời của bản thân mình. + Nhận ra một điều rằng công sức cả đời mình đã không uổng phí: Hạnh phúc khi thấy các em khôn lớn, làm được thay ba mẹ điều còn dang dở trong đời. ->Tấm lòng nhân hậu cao cả, giàu đức hi sinh của một con người khiến ta xúc động, nghẹn ngào. c. Các hình thức nghệ thuật đặc sắc. - Cốt truyện đơn giản, dễ hiểu, xúc động - Cách lựa chọn ngôi kể thứ ba giúp cho câu chuyện hiện lên khách quan, đồng thời giúp cho người kể chuyện có kể một cách linh hoạt mọi sự việc diễn ra ở khắp mọi nơi, bao quát được tâm trạng của các nhân vật. - Nghệ thuật xây dựng chân dung nhân vật thông qua ngoại hình, lời nói, cử chỉ, hành động, nghệ thuật miêu tả diễn biến tâm lí nhân vật hợp lý, độc đáo, phù hợp. - Cách kể chuyện tự nhiên, ngôn ngữ kể chuyện giản dị, mộc mạc. - Cách đặt nhan đề tác phẩm khơi gợi những suy ngẫm trong lòng người đọc. KB - Khẳng định lại giá trị của truyện. 0,5 - Cảm xúc hoặc lời nhắn gửi tới mọi người. 8
- 0,5 - Đảm bảo chuẩn chính tả, diễn đạt lưu loát, sáng tạo ĐỀ 2: PHẦN I. ĐỌC HIỂU ( 4,0 điểm) Đọc đoạn trích và trả lời câu hỏi KHOẢNG TRỜI VÀ HỒ BOM - (Hòa Bình) (1) Lâm Thị Mỹ Dạ làm bài thơ Khoảng trời hố bom tại Trường Sơn vào tháng 10 năm 1972, một trong những thời điểm ác liệt nhất của cuộc chiến tranh chống Mỹ. Trên dãy Trường Sơn, ngày nào cũng có sự hy sinh của bộ đội, thanh niên xung phong. Sự hy sinh của họ đã trở thành những biểu tượng tuyệt đẹp trong văn học. Bài thơ như câu chuyện kể về sự hi sinh dũng cảm của một cô gái mở đường: “Chuyện kể rằng em cô gái mở đường/ Để cứu con đường đêm ấy khỏi bị thương/ Cho đoàn xe kịp giờ ra trận/ Em đã lấy tình yêu Tổ quốc của mình thắp lên ngọn lửa/ Đánh lạc hướng thù hứng lấy luồng bom”. Chất tự sự khá đậm rõ: khi đơn vị hành quân qua con đường mòn, những chiến sĩ ra trận chỉ còn thấy hố bom và huyển tích về người con gái hi sinh. Giọng thơ không còn cứng cỏi, vang vang như trước nữa mà nó đã lắng xuống, trầm vọng như tiếng thở dài đầy thương cảm: “Em nằm dưới đất sâu. Không thương cảm sao được khi biết rằng cô gái “nằm dưới đất sâu” giữa những hố bom nham nhở đang còn trẻ lắm; đấy là một trinh nữ anh hùng, một biểu tượng bất tử của tinh thần yêu nước Việt Nam: “Giặc đến nhà đàn bà cũng đánh”. (2) Sự hy sinh của cô gái chính là thông điệp mà tác giả gửi gắm vào bài thơ bằng những so sánh và hình ảnh đẹp trong thi phẩm. "Em...” trở thành “khoảng trời đã nằm yên trong đất”. Đấy là một khoảng trời được tỏa sáng bởi tâm hồn người con gái nên đêm đêm “Những vì sao ngời chói lung linh”. Ta hầu như không còn thấy nữa sự tan hoang, chết chóc nữa, mà vượt lên tất cả, bao trùm tất cả là vẻ đẹp bao la, vĩnh hằng của thiên nhiên đất nước với sự hóa thân, dâng hiến của em: “Có phải thịt da em mềm mại trắng trong/ Đã hóa thành những vầng mây trắng/ Và ban ngày khoảng trời ngập nắng/ Đi qua khoảng trời em/ Vâng dương thao thức/ Hơi mặt trời hay chính trái tim em trong ngực...”. Ở đây có hai khoảng trời soi ngắm nhau; một khoảng trời “thật” trên cao có các vì sao, có mây trắng, có ánh nắng vầng dương và một khoảng trời “ảo” - “Khoảng trời hố bom” - nằm trong đất có tâm hồn, thịt da, trái tim của người trinh nữ dũng cảm. Hai khoảng trời ấy đều đẹp đẽ, lung linh và vĩnh hằng trong sự liên tưởng đẩy tài hoa của tác giả. Sự hy sinh của cô gái mở đường là những dâng hiến lưu lại vĩnh viễn trên mặt đất, non sông này: “Tên con đường là tên em gửi lại/ Cái chết em xanh khoảng trời con gái”. Từ “Khoảng trời hố bom” đến “khoảng trời con gái” là sự thăng hoa bất ngờ của cảm xúc và trí tuệ mà hình như Trời đã “ban” cho Lâm Thị Mỹ Dạ. Cả bài thơ đều hay nhưng nếu được chọn câu hay nhất, tôi sẽ không chết em xanh khoảng trời con gái". Chủ đề tư tưởng và thủ pháp nghệ thuật của bài thơ tập trung trọn vẹn trong câu thơ chỉ 8 âm tiết này. 9
- (3) Tuy nhiên, cái hay đạt độ tỉnh diệu của bài thơ không nằm ở đấy mà nó lung linh phát sáng bởi những so sánh, biểu tượng đầy nghệ thuật sau khúc dạo đầu trên. Những liên tưởng: Đêm đêm tâm hồn em tỏa sáng/Những vì sao ngời chói lung linh, những so sánh: Em nằm dưới đất sâu/Như khoảng trời đã nằm yên trong đất, nối tiếp nhau, bổ sung nhau, tôn vinh nhau làm nên vẻ đẹp và sức sống của bài thơ. Từ không đến có, từ hữu hạn đến vô hạn, từ cụ thể đến trừu tượng là điều tôi cảm nhận được ở hai câu kết: "Gương mặt em bạn bè tôi không biết/Nên mỗi người có gương mặt em riêng". (4) Đọc lại “Khoảng trời hố bom” sau hơn 40 năm tác phẩm ra đời, tôi càng thấm thía điều này: Thơ hay phải chứa trong nó những xúc cảm đầy đặn, những tư tưởng thời đại, gắn bó với Tổ quốc, với nhân dân và được biểu hiện bằng những hình ảnh độc đáo mang dấu ấn sáng tạo của tác giả. Cách tân đến đâu, mới lạ về hình thức đến mấy mà rời xa, thoát ly dân tộc thì chắc chắn sớm hay muộn nó sẽ bị lãng quên như một số trường hợp người làm thơ trong mấy chục năm qua. (Cand.com.vn) Trả lời câu hỏi từ 1 đến 5 Câu 1. (0.5₫) Văn bản bàn về vấn đề luận đề nào? Vấn đề luận để đó được nêu lên ở phần nào của bài viết? Câu 2. (0.5₫) Văn bản gồm mấy luận điểm? Xác định nội dung của từng luận điểm đó. Câu 3. (1.0₫)Đọc luận điểm 2 và trả lời các câu hỏi a,b sau đây. a) Xác định câu chứa luận điểm và vị trí, vai trò của nó trong luận điểm. b) Nêu lí lẽ, dẫn chứng tiêu biểu nhất và nhận xét về mối quan hệ của nó với luận điểm. Câu 4. (1.0₫) Phân tích cách kết hợp bằng chứng khách quan với ý kiến/đánh giá chủ q uan của tác giả và hiệu quả của chúng trong luận điểm 3. Câu 5. (2.0₫) Em thích nhất ý kiến đánh giá chủ quan nào của tác giả? Hãy lí giải. II. VIẾT (5.0₫) Viết bài văn phân tích truyện ngắn “Bát phở” của nhà văn Phong Điệp. Lược trích một phần: Nhân vật “tôi” đi ăn phở tại một quán phở khá ngon, có tiếng ở Hà Nội. Tôi tình cờ được chứng kiến câu chuyện của hai người cha đang đưa hai cậu con trai từ quê lên Hà Nội thi Đại học. Hai người bố sau khi đã trao đổi với nhau mất vài phút, họ cùng bước vào quán phở chỗ “tôi đang ngồi”. Cả bốn người họ nhìn sang tôi, nhìn sang những bàn khác, rồi tần ngần nhìn tới nhìn lui cái biển ghi trên cửa quán. - Phở bò nhé? Tái hay chín? Thêm cả quả trứng cho chắc bụng nhé? Hai cậu con nhè nhẹ gật đầu: “Vâng, gì cũng được” - Thế thì cho hai phở bò chín. Hai trứng. Thằng nhỏ chạy bàn vo cái khăn trong tay, tần ngần nhìn bốn người, ý chừng như muốn hỏi: “Sao bốn người mà chỉ có hai bát?”. Nó chạy ra chỗ ông chủ quán, chỏng lỏn: “Hai bò!” Trong tích tắc, hai bát phở sóng sánh được bê ra, đặt trịnh trọng trên bàn. Chúng màu ăn đi” – Một trong hai người cha lên tiếng. Đoạn hai ông kéo xích cái ghế ra 10
- ngoài một chút, thì thầm nói chuyện với nhau. Đại loại ba cái chuyện mùa màng, bò đẻ, vải thiều sụt giá Rồi tới nữa là chuyện phòng trọ trên này sao đắt chi mà đắt. Sáng mốt ngủ dậy, mình phải trả phòng luôn, không là họ tính thêm một ngày nữa. Mình đợi chúng nó ngoài phòng thi, thi xong thì ra bến xe về luôn. Cần thì mua mấy tấm bánh mì, lên xe ăn tạm. Về đến quê rồi, chúng nó thích ăn gì, tha hồ ăn. Chứ trên này, chậc chậc Cuộc sống nơi đây hẳn là khác rất xa với nơi họ vẫn sống hàng ngày, nơi mà họ đang thon thót về đợt vải năm nay, con bò sắp đẻ lại lăn đùng ra ốm. Họ chỉ vừa lên đây vài ba bữa mà đã thấy lâu quá trời quá đất. Bộ quần áo chỉn chu nhất trong tủ quần áo của hai ông bố nông dân ấy, đều đã mang cả ra đây để mặc rồi. Những bộ quần áo không còn rõ mầu sắc ban đầu của vải nữa. Nhưng dưới quê, chỉ có lễ trọng họ mới mặc mà thôi. Trong khi ấy, hai cậu con vẫn cặm cụi ngồi với bát phở của mình. Chúng không nói gì. Không cả dám khen một câu đại loại: “phở ở đây ngon quá!”. Hàng phở này ngon thật. Tôi vốn rành ăn phở, những quán thế này không thật nhiều. Nhưng vì sao chúng không hồ hởi mà thốt ra một câu như thế? Và tôi, không kìm nén được mình, cứ hướng sang phía bốn con người ấy. Bốn con người ngồi lặng một góc giữa cái quán ồn ã. Người cha sẽ đợi những đứa con của mình ăn đến tận thìa nước cuối cùng, rồi lẳng lặng moi cái ví bằng vải bông chần màu lam, cất trong ngực áo ra. Ông sẽ phải đếm một lúc cho những tờ hai nghìn, năm nghìn, mười nghìn để sao cho đủ ba mươi nghìn đồng, trả cho hai bát phở Hai cậu con trai lặng lẽ bên những người cha. Chúng nhìn những đồng tiền đi ra khỏi ví của cha. Trên gương mặt chúng hiển hiện rõ ràng nỗi âu lo, mỏi mệt. Những kì thi, những nẻo đường ngổn ngang phía trước Hôm nay, chúng nợ cha ba mươi nghìn đồng. Cuộc đời này, chúng nợ những người cha hơn thế nhiều (Trích Văn học và Tuổi trẻ số tháng 5 năm 2019, NXB Giáo dục Việt Nam, tr.61-63) *Phong Điệp: sinh năm 1976, quê ở Nam Định. Truyện của chị thường ít cảm xúc lai láng nghệ sĩ mà tràn trề những câu văn miêu tả của người quan sát khách quan, nhẹ nhõm, dửng dưng nhưng lôi cuốn người đọc đến tận câu kết cuối cùng. ĐÁP ÁN - HƯỚNG DẪN CHẤM MÔN NGỮ VĂN Phần I (5 điểm): Đọc- hiểu Câu Đáp án Điểm 1 Văn bản bàn về: bài thơ Khoảng trời và hố bom của Lâm Thị Mỹ Dạ. - Vấn đề luận để đó được nêu lên ở nhan đề và câu đầu của bài viết. 0,5 2 - Văn bản gồm 4 luận điểm chính. Nội dung của các luận điểm: + Bài thơ như câu chuyện kể về sự hi sinh dũng cảm của một cô gái mở đường, 0,25 + Sự hy sinh của cô gái chính là thông điệp... + Những so sánh, biểu tượng đãy nghệ thuật. 0,25 + Sức sống của bài thơ. 11
- 3 a. Câu chứa luận điểm: Bài thơ như câu chuyện kể về sự hi sinh dũng cảm của 1.0 một cô gái mở đường -> đứng ở đầu luận điểm. b. Dẫn chứng, lí lẽ tiêu biểu nhất: - Dẫn chứng: “Chuyện kể rằng em cô gái mở đường/Để cứu con đường đêm ấy khỏi bị thương/ Cho đoàn xe ra trận/Em đã lấy tình yêu kịp giờ thắp lên ngọn lửa/Đánh lạc hướng thù hứng lấy luồng bom". Tổ quốc của mình - Lí lẽ: Chất tự sự khá đậm rõ qua chi tiết: Khi đơn vị hành quân qua conđường mòn, những chiến sĩ ra trận chỉ còn thấy hố bom và huyền tích về ngườicon gái hi sinh ->Làm sáng tỏ luận điểm: Bài thơ như câu chuyện kể về sự hi sinh 4 Bằng chứng khách quan : là những câu thơ được dẫn trực tiếp từ bài thơ nhằm 1,0 làm sáng tỏ sự hy sinh tuyệt đẹp của cô gái thanh niên xung phong làm nhiệm vụ mở đường : (Những vì sao ngời chói lung linh;/ Có phải thịt da em mềm mại trắng trong/ Đã hóa thành những vầng mây trắng/...) Ý kiến/đánh giá chủ quan của tác giả: - Ở đây có hai khoảng trời soi ngắm nhau; một khoảng trời “thật” trên cao có các vì sao, có mây trắng, có ánh nắng vầng dương và một khoảng trời “ảo” - “Khoảng trời hố bom" - nằm trong đất có tâm hồn, thịt da, trái tim của người trinh nữ dũng cảm. Hai khoảng trời ấy đều đẹp đẽ, lung linh và vĩnh hằng trong sự liên tưởng đầy tài hoa của tác giả -> Đưa bằng chứng khách quan trước để làm cơ sở cho ý kiến/đánh giá chủ quan của tác giả. -> Việc kết hợp bằng chứng khách quan với ý kiến/đánh giá chủ quan của tác giả đã chứng, làm sáng tỏ luận để: Sự hy sinh của cô gái chính là thông điệp mà tác giả gửi gắm vào bài thơ bằng những so sánh và hình ảnh đẹp trong thi phẩm. 5 - HS tự trả lời theo quan điểm cá nhân 1.0 Yêu cầu: + Xác định và trích dẫn đúng ý kiến chủ quan của tác giả thể hiện trong văn bản . + Lí giải 2 lí do trở lên để bảo vệ ý kiến của mình. II. VIẾT 5,0 a. Đảm bảo cấu trúc bài văn nghị luận văn học gồm 3 phần: Mở bài, Thân bài, 0,25 Kết bài b. Xác định đúng yêu cầu của đề: Phân tích tác phẩm truyện “Bát phở” của nhà 0,25 1 văn Phong Điệp c.Triển khai vấn đề nghị luận: HS có thể triển khai bài viết theo nhiều cách, nhưng cần đảm bảo các yêu cầu sau: - Giới thiệu tên tác giả, tác phẩm, nêu nhận xét khái quát về tác phẩm 12
- - Nêu ngắn gọn nội dung chính và phân tích chủ đề của tác phẩm: truyện ca ngợi 3,5 tình phụ tử thiêng liêng và cảm động: tình cảm, sự hi sinh của những người cha dành cho con và tình cảm thấu hiểu, biết ơn của con dành cho cha - Phân tích những nét đặc sắc nghệ thuật của tác phẩm: xây dựng tình huống truyện, xây dựng nhân vật, lựa chọn ngôi kể, ngôn ngữ kể chuyện, chi tiết đặc sắc - Khẳng định thành công của truyện về nội dung, nghệ thuật, bài học liên hệ d. Đảm bảo chuẩn chính tả, ngữ pháp, chữ viết, trình bày sạch đẹp 0,5 e. Sáng tạo trong lời văn và cách thức trình bày. 0,5 ĐỀ 3: I.Phần đọc hiểu (5 điểm) Đọc văn bản sau: Mười ngày đã tới ải Đồng, Mênh mông (1) biển rộng đùng đùng sóng xao. Đêm nay chẳng biết đêm nào, Bóng trăng vằng vặc bóng sao mờ mờ. Trên trời lặng lẽ như tờ, Nguyệt Nga nhớ nỗi tóc tơ chẳng tròn. Than rằng: "Nọ nước kìa non, Cảnh thời thấy đó, người còn về đâu?" Quân hầu đều đã ngủ lâu, Lén ra mở bức rèm châu một mình: "Vắng người có bóng trăng thanh, Trăm năm xin gửi chút tình lại đây. Vân Tiên anh hỡi có hay? Thiếp nguyền một tấm lòng ngay với chàng". Than rồi lấy tượng vai mang, Nhắm dòng nước chảy vội vàng nhảy ngay. (Trích Truyện Lục Vân Tiên, Nguyễn Đình Chiểu, trong Nguyễn Đình Chiểu toàn tập, tập I, NXB Đại học và THCN, Hà Nội, 1980) Chú thích: ( 1) Minh mông: Mênh mông (phát âm theo tiếng miền Nam) Bối cảnh đoạn trích: Kiều Nguyệt Nga được Lục Vân Tiên cứu khỏi đám cướp đã đem lòng yêu mến, tự nguyện gắn bó suốt đời với Vân Tiên.. Nghe tin Vân Tiên đã chết, Kiều Nguyệt Nga thề sẽ thủ tiết suốt đời. Thái sư đương triều hỏi nàng cho con trai không được, đem lòng oán thù, tâu vua bắt Kiều Nguyệt Nga đi cống giặc Ô Qua. Đoạn trích trên ghi lại tâm trạng của Kiều Nguyệt Nga trên đường đi cống giặc Ô Qua. Thực hiện các yêu cầu sau: Câu 1(0.5 điểm): Xác định thể thơ của đoạn trích trên? Câu 2(0.5 điểm): Xác đinh thời gian được miêu tả trong đoạn trích? Câu 3(1.0 điểm): Bút pháp nghệ thuật được sử dụng chủ yếu trong đoạn trích? Câu 4(1.0 điểm): Hai câu thơ: Than rằng: "Nọ nước kìa non, Cảnh thời thấy đó, người còn về đâu?" Cho thấy tâm sự gì của Kiều Nguyệt Nga? Câu 5 (2.0 điểm): Thông điệp sâu sắc tác giả gửi gắm qua đoạn trích? Lí giải vì sao? 13
- II. Phần viết (5.0 điểm) Viết bài văn nghị luận phân tích tác phẩm truyện: ÁO TẾT Con bé Em cười tủm tỉm khi nghĩ tới cái áo đầm màu hồng mà má nó mới mua cho: -Tết này, mình mà mặc cái áo đó đi chơi, đẹp như tiên cho mà coi. Nó nghĩ và nó muốn chia sẻ với con Bích, bạn nó. Con Bích ở trong hẻm, nhà nó nghèo, má nó đi bán bắp nướng ngoài đầu hẻm, con bé Em thích con Bích vì nó hiền, với lại ngồi kế nhau từ lớp một tới lớp năm, làm sao mà không thân cho được. Hôm hai mươi sáu, học buổi cuối năm, hai đứa nôn Tết quá quá trời nên tính trước, nếu mùng một con bé Em đi về Ngoại thì mùng Hai hai đứa đi tới nhà cô giáo. Bây giờ con bé Em tính trong đầu, tới bữa đó chắc nhiều bạn nữa, cho nên nó sẽ mặc cái áo đầm mới thắt nơ, bâu viền kim tuyến cho tụi bạn lé con mắt luôn. Con Bích đang ngồi nướng bắp thế cho má nó đi sách cặn cho heo. Bé Em muốn khoe liền nhưng bày đặt nói gièm: -Còn mấy ngày nữa Tết rồi hen, mầy có đồ mới chưa? -Có, má tao đưa vải cho cô Ba thợ cắt rồi, má tao nói gần Tết đồ nhiều, dồn đống, chắc tới hai mươi tám mới lấy được. -Vậy mầy được mấy bộ? -Có một bộ hà. Con bé Em trợn mắt: -Ít quá vậy? -Con Út Mót với Con Út Hết được hai bộ. Tao lớn rồi, nhường cho tụi nó. -Vậy à? Bé Em mất hứng hẳn, nó lựng khựng nửa muốn khoe, nửa muốn không. Nhưng rõ ràng là con Bích không quên nó: -Còn mầy? -Bốn bộ. Má tao mua cho đủ mặc từ mùng Một tới mùng Bốn, bữa nào cũng mặc đồ mới hết trơn. Trong đó có bộ đầm hồng nổi lắm, hết sẩy luôn. -Mầy sướng rồi. Con Bích nói xong vẫn cười nhưng mắt nó xị xuống, buồn hẳn. Nhà nó nghèo, sao bì được với nhà con bé Em. Hồi nhỏ nó chuyên mặc áo con trai của anh Hai nó để lại. Áo nó thì chuyền cho mấy đứa em, tới con Út Hết là đồ đã cũ mèm, mỏng tang, kéo nhẹ cũng rách. Được cái mấy chị em nó biết thân, lo học chớ không so đo chuyện cũ mới, má nó nói hoài, “Nhà mình nghèo quá hà, ráng vài năm nữa, khá giả rồi má sắm cho”. Con bé Em nhìn con Bích lom lom rồi cúi xuống, trở trở trái bắp nướng: -Bộ đồ mầy mai chắc đẹp lắm, bữa mùng Hai mầy mặc bộ đó đi nhà cô hen? Rồi tới mùng một, mùng hai, bé Em lại rủ con Bích đi chơi. Hai đứa mặc đồ hơi giống nhau, chỉ khác là con Bích mặc áo trắng bâu sen, con bé Em thì mặc áo thun có in hình mèo bự. Cô giáo tụi nó khen: -Coi hai đứa lớn hết trơn rồi, cao nhòng. 14
- Hai đứa cười. Lúc đó con bé Em nghĩ thầm, mình mà mặc bộ đầm hồng, thế nào cũng mất vui. Bạn bè phải vậy chớ. Đứa mặc áo đẹp, đứa mặc áo xấu coi gì được, vậy sao coi là bạn thân. Nhưng Bích lại nghĩ khác, bé Em thương bạn như vậy, tốt như vậy, có mặc áo gì bích vẫn quý bé em. Thiệt đó. ĐÁP ÁN – BIỂU ĐIỂM Phần đọc – hiểu (5.0 điểm) Câu Nội dung Điểm Câu 1 Thể thơ: Lục bát 0,5 Câu 2 Thời gian: Đêm khuya / Ban đêm 0,5 Câu 3 Tâm trạng của nhân vật chủ yếu được thể hiện qua bút pháp tả cảnh ngụ 1.0 tình. Câu 4 Nỗi niềm tự thương bản thân, rồi nay không biết tương lai sẽ về đâu 1.0 Câu 5 Lên án xá hội phong kiến xưa chà đạp lên thân phận người phụ nữ. 2.0 Lí giải: Tác giả cảm thông sâu sắc với thân phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến xưa. Họ là những người phụ nữ đức hạnh, đẹp người đẹp nết, nhưng số phận chịu nhiều bất hạnh trong xã hội phong kiến. Họ không được làm chủ hạnh phúc của đời mình bị xã hội chà đạp về nhân phẩm, danh dự. Họ là nạn nhân của những quan niệm phong kiến lạc hậu, khắt khe: trọng nam khinh nữ, tam tòng tứ đức Phần Viết (5.0 điểm) 0,25 a. Đảm bảo cấu trúc bài văn phân tích truyện “Áo Tết” 0,25 b. Xác định đúng yêu cầu của đề. c.Bài văn nghị luận phân tích tác phẩm truyện 0,5 1. Mở bài: Giới thiệu tác phẩm truyện và nêu ý kiến khái quát về tác phẩm. - Nguyễn Ngọc Tư là nhà văn của miền đất Nam Bộ. Chính vì vậy mà các tác phẩm của Nguyễn Ngọc Tư được thường mang đậm màu sắc phương Nam, cuốn hút người đọc. Tác giả là cây bút đa tài, sáng tác thành công ở nhiều thể loại như truyện ngắn, tản văn, tiểu thuyết. Văn phong của Nguyễn Ngọc Tư trong sáng, mộc mạc, thể hiện tâm hồn tinh tế, nhạy cảm, giàu yêu thương.... - Truyện ngắn “Áo Tết” kể về tình bạn đẹp giữa bé Em và bé Bích. Đó là những đứa trẻ có tâm hồn trong sáng, giàu tình yêu thương. Dù hoàn cảnh gia đình của bé Em sung túc hơn bé Bích nhưng không vì thế mà bé Em có thái độ khinh thường bạn, ngược lại cô bé còn nhỏ nhưng hiểu chuyện, biết cảm thông, chia sẻ và trân trọng bạn. Đọc truyện, chúng ta cảm nhận được tâm hồn trong sáng, tấm lòng nhân hậu của những bạn nhỏ, từ đó biết trân trọng tình bạn. 3,0 2. Thân bài: * Luận điểm 1: Truyện ngắn “Áo Tết” của nhà văn Nguyễn Ngọc Tư đã khắc họa chân thực, sinh động tình cảm yêu thương giữa những người bạn tốt, đó là câu chuyện về tình bạn đẹp của bé Em và Bích rất đáng trân trọng, ngưỡng mộ. Tình cảm chân thành, trong sáng, ấm áp yêu thương của bé Em đối với bé Bích – một cô bạn nhà nghèo đã hấp dẫn người đọc ngay từ đầu câu chuyện. + Bé Em được sinh ra trong một gia đình khá giả, có cuộc sống đầy đủ, được mẹ yêu thương, chăm sóc và chuẩn bị tất cả điều kiện về vật chất. Bởi vậy, bé Em luôn được sống 15
- trong không khí gia đình hạnh phúc, không phải lo toan, làm việc vất vả như Bích. Còn bé Bích không được may mắn như vậy, gia đình bé khó khăn, em phải sớm chia sẻ công việc gia đình với mẹ. Mặc dù có sự cách biệt về nồng của đội bạn nhỏ tuổi này. Bé Em và bé Bình chơi thân với nhau từ nhỏ, ngôi hoàn cảnh sống thế nhưng điều đó không trở thành bức tường cản tình cảm ấm cùng bàn học từ lớp một đến hết lớp năm, lúc nào cũng tíu tít như đôi chim sẻ, đâu cũng có nhau. Chính điều này đã thắt chặt tình cảm của hai cô bé, chúng biết yêu thương, thấu hiểu tâm tư, tính cách của nhau và vì thế nên có cách ứng xử rất đẹp, rất đáng trân trọng. + Đến ngày tết, bé Em được mẹ mua cho một chiếc váy hồng nơ hoa rất xinh trong số bốn bộ váy mới có được mẹ mua để mặc tết. Cô rất yêu thích và tưởng tượng cảnh minh diện chiếc váy hồng xinh xắn này thì thật là tuyệt vời biết bao. Bởi đó là bộ đồ rất sang trọng, là niềm mơ ước của biết bao đứa trẻ được một lần khoác lên mình chiếc váy xinh đẹp như các nàng công chúa trong các câu chuyện cổ tích. Bản thân bé Em cũng có cảm giác sung sướng khi được mẹ mua cho bộ váy đó: "Con bé Em cười tủm tỉm khi nghĩ tới cái áo đầm màu hồng mà má nó mới mua cho: -Tết này, mình mà mặc cái áo đó đi chơi, đẹp như tiên cho mà coi." Và cái cách bé em nghĩ đến cảnh nó diện bộ váy đó vào người trong ngày tết đến thăm cô giáo mới đáng yêu làm sao: “Bây giờ con bé Em tỉnh trong đầu, tới bữa đó chắc nhiều bạn nữa, cho nên nó sẽ mặc cái áo đầm mới thắt nơ, bầu viễn kim tuyến cho tụi bạn lẻ con mắt luôn”. Phải là người am hiểu thế giới tâm hồn trẻ thơ, thấu hiểu được niềm hạnh phúc của các em nhỏ thì nhà văn Nguyễn Ngọc Tư mới khắc họa sinh động, chính xác tâm lí của những đứa trẻ có được bộ đồ đẹp mặc khoe với bạn bè trong những ngày tốt đến vậy, + Niềm vui khi có bộ đồ mới, người đầu tiên bé Em muốn chia sẻ là Bích – cô bạn thân: “Nó nghĩ và nó muốn chia sẻ với con Bích, bạn nó.”. Nhưng khi đến nhà Bích, trò chuyện với Bích về chuyện quần áo mới đi chơi tết: “Còn mấy ngày nữa Tết rồi hen, mầy có đồ mới chưa? .... Vậy mấy được mấy bộ?", và khi nghe Bích nói: “Có, má tao đưa vải cho cô Ba thợ cắt rồi ....- Có một bộ hà.” thì: “Bé Em mất hứng hẳn, nó lựng khựng nửa muốn khoe, nửa muốn không.”. Trong cái cảm giác “mất hứng” ấy của bé Em có cả tình yêu, sự thương cảm, sẻ chia của cô bé đối với hoàn cảnh nghèo túng, thiếu thốn của gia đình Bích. Bởi, hơn ai hết, bé Em hiểu được gia đình Bích nghèo, đông anh em; mẹ làm lụng quanh năm vất vả thì việc sắm sửa cho con cái bộ đồ mới ngày tết đó là cả một điều khó khăn. + Dù rất thích chiếc váy mẹ tặng và rất muốn được trưng diện với bạn bè trong ngày tết nhưng bé Em lại không dùng đến chỉ vì nghĩ đến Bích - người bạn thân của mình. Đến ngày tết, hai đứa đi thăm cô, bé Em mặc bộ đồ gần giống bé Bích chứ không phải bộ váy lộng lẫy được mẹ mua tặng mặc tết. Trong lòng bé Em không muốn để cho Bích phải tủi thân, nên bé Em: “lại rủ con Bích đi chơi. Hai đứa mặc đồ hơi giống nhau, chỉ khác là con Bích mặc áo trắng bầu sen, con bé Em thì mặc áo thun có in hình mèo bự". Cả hai tung tăng sánh bước vui vẻ bên nhau, cùng tươi cười đón chào năm mới, cùng nhau đến chúc tết cô giáo; trong lòng bé Em chợt trào dâng cảm xúc; “Lúc đó con bé Em nghĩ thầm, minh mà mặc bộ đầm hồng, thế nào cũng mất vui. Bạn bè phải vậy chở. Đứa mặc áo đẹp, đứa mặc áo xấu coi gì được, vậy sao coi là bạn thân.” Cách ứng xử của bé Em thật văn hóa, rất đáng trân trọng. Đọc những chi tiết này, chúng ta có thể cảm nhận được tình yêu thương bạn, tính cách khiêm tốn, sự tinh tế của bé Em. Tuy còn nhỏ nhưng con người bên trong của bé thật sự trưởng thành, biết suy nghĩ đến hoàn cảnh, cảm xúc 16
- của người khác. Tình cảm đẹp mà bé Em dành cho bé Bình - một thứ tình cảm trong sáng, vô tư, tôn trọng khiến người đọc rất ngưỡng mộ. = Bé Em là một cô bé có tâm hồn trong sáng, trái tim nhân hậu, biết trận trọng tình bạn rất đáng ngợi ca. - Truyện ngắn “Áo Tết” của nhà văn Nguyễn Ngọc Tư còn khiến người đọc cảm phục trước vẻ đẹp tâm hồn của bé Bích. Đó là một cô bé có tâm hồn trong sáng, giàu tình cảm và hiểu chuyện, biết giúp đỡ mẹ công việc nhà. + Bích còn là một đứa trẻ nhưng sinh ra trong gia đình nghèo: “Con Bích ở trong hẻm, nhà nó nghèo, má nó đi bán bắp nướng ngoài đầu hẻm, con bé Em thích con Bích vì nó hiền”. Bích sớm nhận thức được hoàn cảnh gia đình khốn khó nên thương mẹ, chia sẻ công việc gia đình với mẹ: “Con Bích đang ngồi nướng bắp thế cho má nó đi xách cặn cho heo.”. + Do gia đình không có điều kiện, lại có nhiều em nên bé Bích nhường quần áo mới cho các em vì vậy bé chỉ có duy nhất một bộ quần áo mới để mặc tết. Từ nhỏ, bé Bích đã luôn mặc lại quần áo cũ của anh trai, ít khi được mặc một bộ quần áo mới dành cho riêng mình: “Nhà nó nghèo, sao bì được với nhà con bé Em. Hồi nhỏ nó chuyên mặc áo con trai của anh Hai nó để lại.”. Bé Em nhìn thấy được điều đó nhưng cũng không thể giúp gì được bạn. Nhưng bản thân Bích cũng không cảm thấy điều đó làm nó buồn, bởi gia đình bé Bích ai cũng vậy: “Áo nó thì chuyền cho mấy đứa em, tới con Út Hết là đồ đã cũ mèm, mỏng tang, kéo nhẹ cũng rách.”. + Dù sinh ra trong một gia đình nghèo, thế nhưng cách anh em Bích sống và chia sẻ với nhau thật đáng trân trọng. Điều đặc biệt là, tất cả anh em cô bé đều yêu thương nhau, hiểu chuyện nên: “Được cái mấy chị em nó biết thân, lo học chứ không so đo chuyện cũ mới,... + Đối với bé Em, Bích dành tình cảm chân thành và rất tôn trọng bạn. Bởi Bích cảm nhận được tình yêu thật lòng, sự quan tâm chu đáo của bé Em đối với mình. Ở bên bé Em, Bích cảm nhận được sự ấm áp yêu thương của tình bạn. Bởi vậy, thương bạn như vậy, tốt như vậy, có mặc áo gì Bích vẫn quý em, thiệt đó!”. bé Em có mặc đồ đẹp, sang trọng hơn Bích thì: “Nhưng Bích lại nghĩ khác, bé Em cũng là một cô bé giàu nghị lực sống, biết trân quý tình bạn, rất đáng để chúng ta = Bé Bích tuy còn nhỏ nhưng hiểu chuyện, trưởng thành trong suy nghĩ và noi gương, học tập. * Luận điểm 2: Để làm nổi bật được tình bạn đẹp của bé Em và bé Bích trong câu chuyện “Áo Tết”, nhà văn Nguyễn Ngọc Tư đã sử dụng những hình thức nghệ thuật đặc sắc. - Cách kể chuyện tự nhiên, sử dụng ngôi kể thứ ba, giọng kể nhẹ nhàng nhưng sâu lắng, ấm áp tình người làm rung động trái tim người đọc. - Cốt truyện đơn giản, xoay quanh những sự việc bình dị trong cuộc sống đời thường của những người bạn nhỏ nhưng có sức truyền thấm mạnh mẽ về giá trị của tình bạn. - Tình huống truyện độc đáo, gợi nhiều liên tưởng, nghĩ suy cho người đọc về những đứa trẻ sinh ra trong gia đình nghèo phải chịu nhiều thiệt thòi so với bạn bè. - Sử dụng ngôn ngữ đối thoại ngắn phù hợp với tính cách nhân vật và giúp người đọc cảm nhận được tâm hồn trong sáng, nhân hậu của những đứa trẻ. - Đọc truyện, chúng ta bị lôi cuốn bởi cách sử dụng ngôn ngữ địa phương Nam Bộ rất dễ thương của nhà văn Nguyễn Ngọc Tư. Điều này cũng làm nên đặc trưng phong cách rất riêng của nhà văn. 17
- - Nhan đề của truyện phù hợp với tâm lý trẻ thơ, gợi nhiều tò mò cho bạn đọc trẻ; góp phần thể hiện chủ đề của truyện: ca ngợi tình bạn đẹp. * Nhận xét khái quát: Tình cảm đẹp mà bé Em dành cho bé Bích - một thứ tình cảm trong sách, vô tư, tôn trọng lẫn nhau. Có người từng nói rằng: “ Tình bạn chân chính là viên ngọc quý” và đôi bạn thân bé Em, bé Bích đã có được viên ngọc quý sáng nhất của riêng bản thân mình. Tình bạn giữa bé Em và Bích trong sáng, thấu hiểu và quan tâm cho nhau. Bé Em sợ bạn buồn nên đã lưỡng lự không khoe áo mới, rồi quyết định không mặc áo mới mà mặc áo có hình con mèo bự để giống với Bích. Bích biết bạn thương mình, nghĩ dù bạn có mặc gì thì Bích vẫn quý bạn. Qua hành động và thái độ của hai nhân vật, người đọc cũng có thể thấy được sự tôn trọng dành cho nhau, không so đo thiệt hơn và đó chính là tình bạn chân chính. 0.5 3. Kết bài: Khẳng định ý nghĩa, giá trị của tác phẩm truyện. - Với cách kể chuyện dung dị, chất văn nhẹ nhàng mà thấm đẫm dư vị đời sống thường nhật; cách cho nhân vật trò chuyện tâm tình để bộc lộ được vẻ đẹp tâm hồn của bé Em và bé Bích; nhà văn Nguyễn Ngọc Tư đã truyền thấm vào trái tim, tâm hồn, suy nghĩ bạn đọc một bức thông điệp giàu giá trị nhân văn về tình bạn đẹp, đáng trân trọng ở mỗi người. - Câu chuyện “Áo Tết” có dung lượng ngắn nhưng giàu ý nghĩa sâu xa, gợi nhắc ở mỗi chúng ta cách ứng xử đẹp với bạn bè. 0,25 d. Chính tả, ngữ pháp Đảm bảo chuẩn chính tả, ngữ pháp Tiếng Việt. 0,25 e. Sáng tạo: Bố cục mạch lạc, lời văn mạch lạc; sắp xếp các ý chặt chẽ; cảm xúc, sinh động, sáng tạo. ĐỀ 4: PHẦN I. ĐỌC HIỂU (5,0 điểm) Đọc văn bản: TRẦN ĐĂNG KHOA: TÁC GIẢ CỦA TUỔI THƠ TRONG TRẺO Được biết đến là cây bút nổi bật trong giới thi ca Việt Nam, Trần Đăng khoa là người có nét riêng xuất sắc trong số các nhà thơ đương đại trước năm 1975. Ông luôn có cái nhìn bao quát về cuộc sống, những chất liệu được dệt trong các tác phẩm hầu hết là sự quen thuộc xung quanh. Suốt hơn năm mươi năm sáng tác, Trần Đăng Khoa đã cho ra đời hơn hai mươi tập thơ và trường ca như Khúc hát người anh hùng, Bên cửa sổ may bay hay Chân dung và đối thoại, chưa kể đến một số tập bút kí và tiểu luận phê bình. Tuy nhiên nổi trội nhất vẫn là Góc sân và khoảng trời. Bằng những đặc sắc trong ngòi bút, Trần Đăng Khoa đã ghi dấu ấn trong lòng người đọc bao kí ức về miền tuổi thơ với chất thơ nhẹ nhàng, hồn nhiên mà đầy chân thật nhưng cũng không kém phần sâu sắc với nhiều tầng ý nghĩa. Mười tuổi ông đã có những câu thơ vô cùng trong trẻo và xúc động chạm đến trái tim người đọc. Qua lăng kính của một cậu bé, hạt gạo hiện lên trong bức tranh đầy màu sắc cùng với giọt mồ hôi và nỗi khó nhọc của người nông dân. Không những thế, tác phẩm Hạt gạo làng ta còn chứa đựng cả hình ảnh tảo tần của những người phụ nữ hậu phương. Bao nhiêu hạt gạo là bấy nhiêu chân tình cùng nỗi nhớ nhung khắc khoải của quê hương dành cho tiền tuyến....[ Hạt gạo làng ta] 18
- Quê hương và thiên nhiên luôn hiện hữu trong các tác phẩm của Trần Đăng Khoa như một hình tượng nghệ thuật giàu sức gợi, được cảm nhận bằng tấm lòng của một người con đã gắn bó với mảnh đất mình sinh ra và lớn lên....[Trăng ơi từ đâu đến?] Thơ của Trần Đăng Khoa không chỉ hồn nhiên, trong sáng mà còn du dương như một bản đồng giao với cách gieo chữ có hồn, có nhịp. Trong thơ của ông, nhạc điệu không chỉ là giai điệu của tâm hồn mà còn có khả năng tạo hình, tạo nghĩa tinh tế. Thế giới âm thanh giàu tiết tấu trong từng vần thơ của cậu bé mười bốn tuổi đã phần nào khẳng định tài năng xuất chúng với trình độ thượng thừa trong cách chơi chữ xứng đáng với danh xưng “thần đồng” thi ca. Không những thế nhà thơ còn lồng ghép linh hoạt nhiều phép nghệ thuật như ẩn dụ, nhân hóa hay từ láy khiến thơ của ông không những hóm hỉnh, vui nhộn mà còn vô cùng có chiều sâu và đầy tinh tế...[ Cây dừa] Điều khiến thơ ông khác lạ so với những nhà thơ cùng độ tuổi lúc bấy giờ là cách đưa thế giới xung quanh vào tác phẩm bằng một tâm hồn sâu sắc cùng đôi mắt quan sát nhạy bén. Từng vần thơ Trần Đăng Khoa đã thể hiện trọn vẹn vẻ đẹp hồn nhiên, chân thực của trẻ thơ nên dễ dàng chạm đến trái tim của độc giả và để lại trong họ miền kí ức tươi đẹp của những ngày còn thơ bé. Dù có phủ bao nhiêu lớp bụi của thời gian thì thơ Trần Đăng Khoa vẫn luôn sống mãi trong dòng chảy văn chương bởi những nội dung, nghệ thuật đặc sắc chứa đựng trong từng câu chữ... Cho đến tận hôm nay, Trần Đăng Khoa vẫn mãi là tinh tú trên bầu trời văn học Việt Nam. Các tác phẩm của ông không chỉ đóng góp cho thơ ca nước nhà những áng thơ bay bổng mà còn giúp người đọc lưu giữ miền kí ức tuổi thơ vào sâu trong tâm khảm. (Theo Thiên Nhi, Trả lời câu hỏi: Câu 1. (0,5 điểm) Xác định luận đề của văn bản trên. Câu 2. (0,5 điểm) Tác giả bài viết đã lấy bài thơ nào làm dẫn chứng cho chủ đề gắn bó với quê hương và thiên nhiên trong thơ Trần Đăng Khoa? Câu 3. (1,0 điểm) Nêu vai trò của các bằng chứng được sử dụng trong đoạn trích. Câu 4. (1,0 điểm) Nhận xét về những lí lẽ và dẫn chứng mà người viết sử dụng trong đoạn văn sau: Mười tuổi ông đã có những câu thơ vô cùng trong trẻo và xúc động chạm đến trái tim người đọc. Qua lăng kính của một cậu bé, hạt gạo hiện lên trong bức tranh đầy màu sắc cùng với giọt mồ hôi và nỗi khó nhọc của người nông dân. Không những thế, tác phẩm Hạt gạo làng ta còn chứa đựng cả hình ảnh tảo tần của những người phụ nữ hậu phương. Bao nhiêu hạt gạo là bấy nhiêu chân tình cùng nỗi nhớ nhung khắc khoải của quê hương dành cho tiền tuyến....[ Hạt gạo làng ta] Câu 5. (2,0 điểm) Đoạn trích trên giúp em hiểu thêm điều gì về hoạt động sáng tạo thơ ca của các nhà thơ? PHẦN II. VIẾT Hãy phân tích truyện ngắn “Anh Hai”. (Tác giả: Bùi Quang Minh) ANH HAI Mẹ nói số anh Hai là số khổ. Ngủ thì không nằm trên giường mà cứ phải "kẻo cà kẻo kẹt" lắc lư trên võng mới ru được giấc nồng. Cả nhà đi ăn tiệc ở nhà hàng. Làm gì thì làm, cụng ly với ai thì cụng, bận sau cùng Hai cũng "len lén" chọn chiếc ghế sát cửa để ngồi. Nhắm nhắm không ai để ý, Hai trốn ra ngoài bậc thềm ngắm trời nhìn mây. Vậy mà... lòng 19
- Hai lại tự tại hơn nhiều! Ở nhà, cơm trong nồi, Hai chỉ ăn phần cơm cháy dưới đáy, cơm thịt thì chê "nhạt nhẽo" con không nuốt được! Cha má thấy vậy ôm Hai khóc dữ lắm. Chỉ có lũ em thì vẫn há miệng... lùa cơm!!! Nhà nghèo, nó cám cảnh gì đâu không biết... Xong lớp 9, Hai dùng dằng một hai đòi nghỉ học. Hai lang thang kiếm việc làm phụ cha má kiếm tiền nuôi em đi học. Mà có phải ít đâu, sau Hai còn có cả bảy đứa loi nhoi lúc nhúc như bầy heo con "chờ sữa...!" Nhờ có sự hy sinh thầm lặng của Hai, mà bảy đứa em thì đúng bảy vinh hiển rạng rỡ tổ tông. Cả thảy đều thành ông nọ bà kia. Rồi cũng một tay Hai tìm hiểu chọn vợ dựng chồng cho các em. Nước đẩy thuyền trôi - bông Lục Bình bị mạn thuyền nghiền nát... Ngày gái út (đứa em thứ thứ 7) vu quy theo chồng, nhà hàng tiệc cưới Minh Anh (Phường Cát Lái Quận 2) cái nhà hàng to tổ bố nhất quận. Chiếc ghế cha má bị bỏ trống. Từ trước lúc thằng Ba lấy vợ thì cha má đã lần lượt bỏ cả nhà mà đi. Có còn ai nữa đâu để mà ngồi vào. Cả nhà dòm qua dòm lại như "gà con lạc mẹ" nháo nhác đi tìm Hai. Hàng loạt tiếng gọi thất thanh vang lên: - Anh Haiiiiii...! Hai ơi...! - Hai ơi... út tìm hai nè...! Hai lặng lẽ đứng bên kia đường nhìn qua hôn trường. Đoạn đường này xe container kéo nhau chạy rầm rầm từ vòng xoay đi lên. Dòng xe nườm nượp lướt qua bỏ lại Hai một mình trơ trọi. Bộ Vest trên người Hai chợt... run lên bần bật! Hai ít học thiệt. Nhưng Hai cũng nhìn ra được một thứ sự thật phũ phàng, trong đó toàn người có học thức, địa vị xã hội, sự xuất hiện của mình chỉ khiến các em xấu hổ thêm mà thôi! Xòe tay mình ra, Hai không còn thấy đâu là những đường chỉ tay nữa. Mà hằn lên đó là chồng chồng lớp lớp những vết "cào cấu của thời gian!" Viết trọn vẹn một dòng chữ tên của mình, Hai còn toát cả mồ hôi. Dáng đứng xiêu vẹo qua tháng năm hy sinh vì đàn em. Một cái gì đó dâng lên nơi cuống họng Hai bứng nghẹn. Hai có một chút tủi phận... nhưng thiệt là nhanh cảm giác đó bị dập tắt. Hai ngước nhìn lên trời xanh mà thầm nói trong nghẹn ngào "... cha má ơi... rốt cuộc thì con cũng đã làm được điều cha má căn dặn...!" Hai mỉm cười xoay người tính bước đi. Bỗng cánh tay bị níu lại. Cô em út trong chiếc xoa-rê trắng tinh khôi khư khư giữ vạt áo Hai. Út quỳ xuống: - ... Hai ơi... Hai đừng đi bỏ út... Hai không những là Hai mà Hai còn là cha là má... Hai ơi!!!!! Hai chợt rùng mình và ngơ ngác khi thấy 6 đứa còn lại cũng đang tèm lem nước mắt! Ôm chầm bảy đứa em lớn xác mà còn mít ướt của mình vào lòng. Tụi nó giờ lớn quá, có còn nhỏ dại như ngày nào được một tay Hai che chở nữa. Bất giác Hai nhận ra một điều rằng công sức cả đời mình đã không uổng phí........ 20

